NHỮNG GỢI Ý:

Những người lãnh đạo tôn giáo sai một số điều tra viên của họ là những người Pha-ri-si và thầy thông giáo từ trụ sở của họ tại Giê-ru-sa-lem đến theo dõi Chúa Jêsus.

Lời cáo ở đây không phải là các môn đệ Chúa thiếu vệ sinh, nhưng là họ không tuân giữ các nghi thức thanh tẩy. Người Pha-ri-si dạy rằng một người có thể bị ô uế do tiếp xúc, vì thế họ qui định những nghi thức thanh tẩy thật chi li. Những nghi thức này là một phần của "lời truyền khẩu”, tức luật bất thành văn, vốn được họ xem ngang hàng với luật pháp thành văn.

Những người Pha-ri-si tưởng rằng mình có thể lên án, kết tội các môn đồ và Chúa Jêsus, tuy nhiên, phái đoàn ấy không hài lòng về những gì họ đã nghe Chúa Jêsus trả lời, vì họ bị Chúa Jêsus quở trách là chỉ giữ luật pháp và những lời truyền khẩu để trông cho có vẻ thánh thiện, chớ không phải vì muốn tôn vinh Đức Chúa Trời.

Chúa Jêsus cũng dạy cho họ hiểu rằng không phải vì đưa một thức ăn nào đó vào miệng khiến cho con người mắc tội. Con người không được phép đổ lỗi cho việc tôi ăn thịt heo cho nên tôi mắc tội gian dâm; tại vì tôi ăn thịt con dê nên tôi đã phạm tội ngoại tình; tại vì tôi ăn một trái chanh nên tôi mắc phải tội hay nói hành, nói chanh chua với người khác... Nhưng tội lỗi của con người xuất phát từ tâm trí, từ trong lòng người, từ con người xác thịt bị tội lỗi cai trị mà bày tỏ ra sự tà dâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, ngông cuồng...

Trong Mác đoạn 7 và đầu đoạn 8 ghi chép chuyến hành trình của Chúa Jêsus ra hỏi vùng đất của người Do Thái để đi đến vùng đất của dân ngoại, trong chuyến hành trình này Chúa Jêsus muốn ẩn mình khỏi sự tấn công của kẻ thù là giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Đó cũng là lý do tại sao Chúa Jêsus "không muốn cho ai biết mình" nhưng Mác đã thuật lại 3 phép lạ lớn lao Chúa Jêsus đã làm cho những con người sống tại các vùng xa xôi thuộc về đất ngoại bang này. Đó là đuổi quỷ, chữa lành cho người bị điếc và hóa bánh lần thứ hai nuôi 4.000 người.

Các vùng mà Ngài đã lánh đến trong giai đoạn tạm rút lui, ẩn mình là: (1) bờ Đông Bắc biển Ga-li-lê (Mác 6:30-53), (2) xứ Phê-ni-xi (Mác 7:24-30), (3) khu vực Đê-ca-bô-lơ (Mác 7:31-8:10) và (4) Sê-sa-rê Phi-líp (Mác 8:27- 9:32).

 

Câu Kinh Thánh ghi nhớ Mác 7:37  (BDHD): 

Mọi người đều vô cùng ngạc nhiên và nói: “Ngài làm mọi việc thật tốt đẹp: Ngài khiến kẻ điếc nghe được, người câm nói được!”

 

Các nhân vật:

Người phụ nữ trong Mác 7:24-30 được gọi là một người Hy Lạp, sinh quán tại Si-rô-phê-ni-xi, trong sách Mác, và là một người Ca-na-an trong Ma-thi-ơ. Cách Mác gọi tên bà ta ám chỉ thành phần xuất thân về mặt chính trị của bà. Độc giả người La Mã của ông sẽ dễ dàng nhận ra bà bởi phần đất thuộc đế quốc La Mã vốn là quê hương của bà.

Chó ở đây ám chỉ loại chó nhỏ hay những con chó cảnh nuôi trong nhà, chớ không phải loại chó hoang sống ngoài đường phố. Chúa Jêsus đang muốn nói rằng điều ưu tiên hàng đầu của Ngài là cung cấp thức ăn cho con cái (dạy dỗ các môn đệ), chớ không để cho những con chó cảnh làm gián đoạn bữa ăn trong gia đình.

Người phụ nữ đã không tìm cách cãi lại. Lợi dụng hình ảnh chọn lọc của Chúa Jêsus, bà vạch rõ rằng bà sẵn sàng bị xem là kẻ gây trở ngại, miễn là bà có thể nhận được sự chữa lành của Đức Chúa Trời cho con gái mình. Mỉa mai thay, nhiều người Do Thái đã không được Đức Chúa Trời chữa lành về mặt tâm linh vì họ chối bỏ Chúa Jêsus, trong khi nhiều Dân Ngoại, vốn bị dân Do Thái chối bỏ, lại tìm được sự cứu rỗi vì họ nhận biết Chúa Jêsus.

 

Địa danh:

  • Ty-rơ và Si-đôn: Chúa Jêsus đã vượt qua khoảng 30 dặm đường đến Ty-rơ và rồi đến Si-đôn. Đây là những thành phố cảng nằm trên bờ Địa Trung Hải ở phía bắc xứ Y-sơ-ra-ên. Cả hai thành phố này đều có nền thương mại phát đạt và rất giàu có. Đó là những thành phố lịch sử mà dân Ca-na-an lấy làm tự hào.

  • Sy-rô-phê-ni-xi: Lúc đó, người Sy-ri cai trị xứ Phê-ni-xi. Có lẽ Mác dùng từ ngữ này là để phân biệt người phụ nữ này với dân Ly-bi-phê-ni-xi của Bắc Phi.

 

Bản Đồ Thời Chúa Jêsus:

Map 03 name


Nội dung

Rửa tay trước khi ăn

(Mat 15:1-20)

1 Bấy giờ có mấy người Pha-ri-si và thầy thông giáo từ thành Giê-ru-sa-lem đến, tụ họp chung quanh Đức Chúa Jêsus; 2 họ thấy một vài môn đồ Ngài dùng bữa mà tay không sạch, nghĩa là chưa rửa tay. 3 (Theo truyền thống của người xưa, người Pha-ri-si và người Giu-đa đều không ăn nếu chưa rửa tay; 4 khi ở chợ về, nếu chưa rửa họ cũng không dùng bữa. Họ lại còn giữ nhiều điều khác nữa như tẩy rửa chén tách, bình lọ và các đồ dùng bằng đồng). 5 Vì thế, những người Pha-ri-si và các thầy thông giáo hỏi Ngài: “Tại sao môn đồ Thầy không sống theo truyền thống của người xưa, cứ để tay bẩn mà dùng bữa vậy?” 6 Ngài đáp: “Ê-sai đã nói tiên tri về bọn đạo đức giả các ngươi thật là đúng:

'Dân nầy lấy môi miệng tôn kính Ta,

Nhưng lòng chúng nó cách xa Ta lắm.

7 Việc chúng thờ phượng Ta là vô ích,

Giáo lý chúng dạy chỉ là những luật lệ của loài người.’

8 Các ngươi bỏ điều răn của Đức Chúa Trời mà giữ tập tục của loài người!”

9 Ngài cũng nói với họ: “Các ngươi khéo bỏ điều răn của Đức Chúa Trời để giữ lấy truyền thống của mình! 10 Vì Môi-se đã nói: 'Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi’ và 'Ai nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử’; 11 nhưng các ngươi lại bảo: 'Nếu ai nói với cha mẹ rằng những gì con có thể giúp cha mẹ là co-ban’ (nghĩa là lễ vật đã dâng cho Đức Chúa Trời). 12 Vậy các ngươi không cho phép người ấy làm gì cho cha mẹ mình nữa. 13 Như thế, các ngươi cố bám giữ truyền thống của mình mà chối bỏ lời Đức Chúa Trời. Các ngươi còn làm nhiều việc khác tương tự như vậy.”

14 Sau đó, Ngài lại gọi dân chúng đến và phán: “Tất cả hãy nghe Ta và hiểu rằng: 15 Không có vật gì từ bên ngoài vào trong con người có thể làm ô uế người được; nhưng những gì ra từ bên trong con người mới làm ô uế người.” 17 Khi Ngài đã vào trong nhà và cách xa dân chúng rồi, các môn đồ hỏi Ngài về ẩn dụ ấy. 18 Ngài phán: “Vậy các con cũng không hiểu sao? Các con không biết rằng chẳng có vật gì từ bên ngoài vào có thể làm ô uế con người được sao? 19 Vì vật đó không đi vào lòng người, nhưng vào bụng, rồi bị thải ra nơi kín đáo.” Như vậy, Ngài ngụ ý rằng mọi thức ăn đều tinh sạch. 20 Ngài lại phán: “Điều gì ra từ con người mới làm ô uế con người. 21 Vì từ bên trong, từ lòng người mà sinh ra những ác ý như: tà dâm, trộm cướp, giết người, 22 ngoại tình, tham lam, độc ác, dối trá, phóng túng, ganh tị, vu khống, kiêu ngạo, ngông cuồng. 23 Tất cả những điều xấu ấy đều xuất phát từ bên trong và làm cho con người ô uế.”

Đức tin của người phụ nữ Ca-na-an

(Mat 15:21-28)

24 Từ đó, Đức Chúa Jêsus lên đường đi đến địa phận thành Ty-rơ và thành Si-đôn. Ngài vào một nhà kia và không muốn ai biết mình ở đó, nhưng không thể giấu được. 25 Một phụ nữ kia có con gái bị uế linh ám, vừa nghe nói về Ngài, lập tức đến phủ phục dưới chân Ngài. 26 Bà là người Hi Lạp, gốc Sy-rô-phê-ni-xi. Bà xin Ngài đuổi quỷ ra khỏi con gái mình. 27 Đức Chúa Jêsus bảo bà: “Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì lấy bánh của con cái mà ném cho chó ăn là điều không phải lẽ.” 28 Nhưng bà thưa rằng: “Lạy Chúa, đúng là vậy, nhưng mấy con chó dưới bàn cũng được ăn những miếng bánh vụn của con cái.” 29 Ngài phán: “Con về đi, bởi lời con vừa nói mà quỷ đã ra khỏi con gái con rồi.” 30 Về đến nhà, bà thấy con mình nằm trên giường, và quỷ đã ra khỏi.

Đức Chúa Jêsus chữa lành người điếc

31 Đức Chúa Jêsus lại rời địa phận thành Ty-rơ, đi ngang qua thành Si-đôn hướng đến biển Ga-li-lê và vào địa phận Đê-ca-bô-lơ. 32 Người ta đem đến cho Ngài một người điếc và ngọng, nài xin Ngài đặt tay trên người ấy. 33 Ngài đem người ấy ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh ta, và nhổ nước bọt thấm vào lưỡi anh ta. 34 Rồi Ngài ngước mắt lên trời, thở dài và phán: “Ép-pha-ta!” nghĩa là: “Hãy mở ra!” 35 Tức thì tai người ấy được mở ra, lưỡi được thong thả, và anh ta nói rõ ràng. 36 Đức Chúa Jêsus bảo họ đừng thuật chuyện nầy với ai, nhưng Ngài càng cấm, người ta càng nói. 37 Mọi người đều vô cùng ngạc nhiên và nói: “Ngài làm mọi việc thật tốt đẹp: Ngài khiến kẻ điếc nghe được, người câm nói được!”