Li-ban, Núi\ Lebanon. Liban (Trắng cực điểm).

Một dãy núi ở cõi bắc xứ Pha-lê-tin. Tên Li-ban nghĩa là trắng vì tuyết che phủ trọn cả đỉnh quanh năm, hoặc vì các dốc và chỏm bằng đá vôi màu trắng. Kinh Thánh chép dãy Li-ban ở địa giới phía Bắc xứ Y-sơ-ra-ên (Phục 1:7; 11:24; Giô 1:4). Hai dãy núi riêng rẽ cùng gọi bằng tên nầy, chạy dài song song từ Tây nam đến Đông bắc chừng 135 cây số, bao ở giữa một trũng (Giô 11:17) phì nhiêu rộng từ 8-12 cây số, xưa gọi là Coele-Syria. Giải bên tây các nhà địa dư xưa gọi là "Libanus", và Kinh Thánh gọi là Li-ban. Giải bên đông các nhà địa dư gọi là "Anti-Libanus", còn Giô 13:5 gọi là "Li-ban về phía mặt trời mọc".

1. Li-ban, giải bên Tây, bắt đầu ở phía Nam với một vực sâu Litâny, sông Léontes xưa, tưới trũng Coele-Syria và đổ ra biển Địa-trung-hải, chừng tám cây số về phía Bắc Ty-rơ. Dãy núi đó chạy thẳng một đường dài song song với bờ biển cho đến đồng bằng Émesa mà Kinh Thánh gọi là "nơi vào ranh Ha-mát" (Giô 13:5). Tại đó, Nahrel-Kébir, sông Eleutherus xưa, chảy qua mặt nam. Các đỉnh dãy núi nầy cao từ 1.800 đến 2.450 thước, song có hai đỉnh cao hơn nhiều. Trên hai đỉnh núi đó, tuyết đống lại từng tảng suốt cả mùa hạ (Giê 18:14). Trên đá vôi có trồng những cây dẻ bộp xanh tươi, và trên đá cát trồng thông. Thế nhưng công việc trồng trọt lại thuận lợi lạ lùng. Những cây vả mọc từ những tảng đá trơ trụi; trên các khoảnh hẹp người ta trồng nho; các hàng cây dâu che phủ các dốc như các bực thang, và nhiều bụi cây Ô-li-ve đầy dẫy nơi thấp của trũng. Có hàng trăm làng, nơi nầy xây cất giữa những phiến đá ngổn ngang, nơi kia như các tổ chim nhạn bên cạnh các mỏm đá, còn các tu viện cũng xây nhiều trên chót mõm chòm. Khắp nơi người ta thường trồng nhiều nho. Li-ban nay dư dật những cây Ô-li-ve, vả và dâu; còn vài chỗ khác có những rừng thông, dẻ bộp, và cây hương bách (ICác 5:6; Thi 29:5; Ês 14:8; Exơ 3:7). Có rất nhiều thú rừng còn ở trong các trũng hẻo lánh và các đỉnh cao, như sài lang, báo, gấu, v.v... (IICác 14:9; Nhã 4:8; Ha 2:17). Dọc theo miền thấp núi Li-ban có những cánh đồng bất thường của người Phê-ni-xi; không một chỗ nào rộng đến ba cây số, và thường ngắt quãng bởi các tảng đá nhọn hoặc chìm dưới biển. Cả dãy Li-ban toàn là đá vôi và có rất nhiều di vật đột vào đá. Những đèo dài bằng cát chạy theo dốc phía Tây, có nhiều chỗ thẫm sắt. Núi Li-ban nguyên của người Hê-tít ở (Giô 13:5-6; Quan 3:3). Chúa ban cả dãy núi cho người Y-sơ-ra-ên, song họ không bao giờ chiếm lấy (Giô 13:2-6; Quan 3:1-3). Trong đờICác Giu-đa, dãy núi này dường như thuộc về người Phê-ni-xi (ICác 5:2-6; Exơ 3:7). Từ cuộc xâm chiếm của người Hy-lạp đến nay, núi Li-ban không có lịch sử rõ rệt.

2. Anti-Liban; dãy núi nầy bắt đầu từ miền cao nguyên xứ Ba-san, gần đối ngang với thành Sê-sa-rê Phi-líp, chạy về phía Bắc đến núi Hẹt-môn, rồi về phía Tây Bắc chạy một đường dài cho đến khi hạ xuống đồng bằng lớn Émesa không xa thành Ríp-la mấy. Hẹt-môn là đỉnh núi cao nhất: 2.770 thước, rồi đến đỉnh núi cao thứ nhì chừng vài cây số về phía Bắc thành Abila, cạnh làng Bludân, và cao chừng 2.135 thước. Còn các đỉnh núi khác cao chừng 1.500 thước, phần nhiều là trơ trụi, với những dốc, và những đỉnh núi tròn toàn màu xám. Đây đó, ta thấy những rừng thưa trồng dẻ bộp và giếng giêng. Những dốc về phía Tây đâm thẳng đến Bukâ'a. Song về mặt đông thì khác hẳn. Từ núi Hẹt-môn chia làm ba phần như những giải quạt mở ra, làm thành những tường đỡ ba khu đất rộng bằng phẳng. Chỉ có một lần Kinh Thánh nói đến Anti-Liban tả rất đúng là "hướng về phía mặt trời mọc" (Giô 13:5). "Ngọn tháp Li-ban ngó về hướng Đa-mách" (Nhã 7:4) chắc là núi Hẹt-môn, vì là nơi tả rất rõ phong cảnh thành đó.