SÁNG THẾ KÝ
Giới thiệu: TRƯỚC CÔNG NGUYÊN: TRƯỚC SỰ SÁNG TẠO (Sáng Thế Ký 1-50:26)
Mặc dù tên “Sáng Thế ký” nghĩa là “sự khởi đầu” và mặc dù vị trí của nó là sách đầu tiên trong Kinh Thánh, nhưng sách Sáng Thế ký không phải là khởi đầu của mọi sự. (Sáng Thế Ký 1:1) nhắc nhở chúng ta “Ban đầu Đức Chúa Trời”. Vì vậy, trước khi chúng ta học những nền tảng đặt ra trong (Sáng Thế Ký 1:1-11:33), hãy làm quen với điều Đức Chúa Trời đã làm trước những gì được ghi lại trong Sáng Thế ký. Xét cho cùng, chúng ta sẽ xem xét điều Ngài đã làm được chép trong Sáng Thế ký, và sau cùng, điều xảy ra sau Sáng Thế ký. Điều này sẽ cho chúng ta cái nhìn khái quát chúng ta cần để học phần còn lại về sự mạc khải của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh.
1.Trước Sáng Thế ký: sự cứu chuộc được hoạch định
Điều gì xảy ra trước khi Đức Chúa Trời phán vũ trụ được dựng nên? Điều đó có vẻ giống như một câu hỏi giả thuyết “Có bao nhiêu thiên sứ có thể đứng trên mũi nhọn của một đinh ghim?” Nhưng không phải vậy [1] Xét cho cùng, Đức Chúa Trời không hành động độc đoán, và việc Ngài tạo nên vật gì đó gợi ý rằng Ngài chắc đã nghĩ đến những mục đích tuyệt vời nào đó. Vậy, hoàn cảnh trước (Sáng Thế Ký 1:1) là gì, và nó dạy chúng ta điều gì về Đức Chúa Trời và chính chúng ta?
Đức Chúa Trời đã tồn tại trong sự vinh hiển siêu phàm. Đức Chúa Trời còn đời đời, Ngài không có khởi đầu và kết thúc. Vì thế, Ngài hoàn toàn đầy đủ khả năng và không cần gì ngoài chính Ngài để tồn tại hoặc để hành động. A. W. Tozer đã viết “Đức Chúa Trời có một mối liên hệ tự nguyện với mọi vật Ngài tạo nên nhưng Ngài không có mối liên hệ cần thiết nào với bất cứ điều gì ngoài chính Ngài” [2] Đức Chúa Trời không cần gì, vũ trụ vật chất hay dòng dõi loài người, nhưng Ngài đã dựng nên cả hai.
Nếu bạn muốn điều gì đó khiến tâm trí bạn kinh ngạc, hãy suy gẫm khái niệm về những sự đời đời, không có khởi đầu và kết thúc. Là những tạo vật của thời gian, bạn và tôi có thể dễ dàng tập trung vào những điều tạm thời quanh chúng ta, nhưng thật khó nếu không muốn nói là không thể được để hiểu về điều mang tính đời đời [3] Suy tưởng về bản chất và tính cách của Đức Chúa Trời Ba Ngôi Đấng luôn luôn đã, đang và sẽ y nguyên và là Đấng không bao giờ thay đổi, là một công việc vượt quá sức chúng ta “Ban đầu Đức Chúa Trời”.
Môi-se viết: “Trước khi núi non sanh ra hoặc Chúa dựng nên đất và thế gian, từ trước vô cùng cho đến đời đời Chúa là Đức Chúa Trời” (Thi Thiên 90:2 NIV) Frederick Faker trình bày điều này như vầy:
Vô tận, vô biên, độc nhất, một mình [4]
Nhưng Ba ngôi siêu phàm
Ngài luôn là Đức Chúa Trời duy nhất
Trong sự hiệp một đầy hùng vĩ! [5]
“Tiến trình thần học” là một tà giáo xưa trong cái vỏ hiện đại, quả quyết một “Đức Chúa Trời giới hạn” đang ở trong tiến trình trở thành một Đức Chúa Trời “lớn hơn”. Nhưng nếu Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, như chúng ta hiểu từ này, thì Ngài tồn tại đời đời và không cần gì cả, và Ngài toàn tri, toàn năng và toàn tại. Để có một Đức Chúa Trời giới hạn”, bạn trước hết phải định nghĩa lại chính từ “Đức Chúa Trời” vì Đức Chúa Trời không thể bị giới hạn bởi định nghĩa.
Hơn nữa, nếu Đức Chúa Trời bị giới hạn và “trở nên lớn hơn”, vậy quyền năng nào sẽ khiến Ngài trở nên lớn hơn? Quyền năng đó sẽ lớn hơn “Đức Chúa Trời” và vì vậy là Đức Chúa Trời! Và điều đó sẽ chẳng cho chúng ta hai Đức Chúa Trời thay vì một hay sao? [6] Nhưng Đức Chúa Trời của Kinh Thánh là đời đời và không có khởi đầu, Ngài vô tận và không biết những giới hạn về thời gian hay không gian.Ngài trọn vẹn và không thể “cải tiến”, bất biến và không thể thay đổi.
Đức Chúa Trời mà Áp-ra-ham đã thờ phượng là Đức Chúa Trời hằng hữu (Sáng Thế Ký 21:33) và Môi-se bảo với dân Y-sơ-ra-ên. “Đức Chúa Trời hằng sống là nơi ẩn náu của các ngươi, và ở dưới có cánh tay đời đời” (Phục truyền 33:27 NIV). Ha-ba-cúc nói rằng Đức Chúa Trời “từ đời đời vô cùng” (Ha-ba-cúc 1:12 và Ha-ba-cúc 3:6 Phao-lô đã gọi Ngài là “Đức Chúa Trời hằng sống (đời đời)” (Rô-ma 16:26 1Ti-mô-thê 1:17).
Ba Ngôi thiêng liêng ở trong sự giao thông yêu thương. “Ban đầu Đức Chúa Trời” sẽ là một nhận định gây sửng sốt cho công dân U-rơ thuộc xứ Canh-đê nơi Áp-ra-ham xuất thân, vì dân Canh-đê và mọi láng giềng của họ đã thờ nhiều thần và nữ thần lớn nhỏ. Nhưng Đức Chúa Trời ở Sáng Thế ký là Đức Chúa Trời chân thật duy nhất và không có “thần đối thủ”nào để cạnh tranh, như bạn đã đọc trong các chuyện thần thoại và truyền thuyết từ thế giới cổ đại (Xuất Ê-díp-tô 15:1 Xuất Ê-díp-tô 20:3 Phục truyền 6:4 1Các vua 8:60 2Các vua 19:15 Thi Thiên 18:31).
Một Đức Chúa Trời chân thật này tồn tại với tư cách Ba Ngôi: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh (Ma-thi-ơ 3:16-17 Ma-thi-ơ 28:18-20) [7]Giăng 3:34-35 Giăng 14:15-17 Công vụ 2:32-33, 38-39 Công vụ 10:36-38 1Cô-rinh-tô 12:1-6 2Cô-rinh-tô 13:14 Ê-phê-sô 1:3-14 Ê-phê-sô 4:1-6 2Tê-sa-lô-ni-ca 2:13-14 Tit 3:4-6 1Phi-e-rơ 1:1-2). Điều này không có nghĩa rằng một Đức Chúa Trời biểu lộ chính Ngài trong 3 dạng khác nhau, hay có ba thần; Nó có nghĩa là một Đức Chúa Trời tồn tại trong Ba Ngôi bình đẳng về thuộc tính nhưng mang vẻ riêng biệt và rõ ràng trong vị trí và chức vụ. Như Nicene Creed (325 SC) nhận định về điều đó, “chúng ta tin một Đức Chúa Trời. Và một Chúa Giê-xu Christ, Con Đức Chúa Trời, được sinh từ Cha, sự sáng của mọi sự sáng, là Đức Chúa Trời của chính Đức Chúa Trời, được sinh ra, không phải được tạo nên, thuộc một thể với Cha, và chúng ta tin nơi Đức Thánh Linh”.
Tôi có lần nghe một người thi hành chức vụ mở đầu buổi thờ phượng bằng lời cầu nguyện “Lạy Cha, cảm tạ Ngài đã chết thay chúng con trên thập tự giá”. Nhưng chính Đức Chúa Con, không phải Đức Cha, là Đấng đã lên án tội nhân hư mất và đem họ đến sự ăn năn cùng sự cứu rỗi. Làm lộn xộn và nhầm lẫn các Ngôi của Đức Chúa Trời thiêng liêng là thay đổi điều được dạy trong Kinh Thánh, và đây là một việc làm nguy hiểm.
Giáo lý Ba Ngôi đã không được bày tỏ rõ ràng trong Cựu Ước, vì sự nhấn mạnh trong Cựu Ước là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là một Đức Chúa Trời, tự hữu và vô song, Đức Chúa Trời chân thật duy nhất. Thờ phượng các tà thần của những người láng giềng là sự cám dỗ lớn và là tội lỗi thường xuyên của Y-sơ-ra-ên, vì vậy Môi-se và các tiên tri đã hết sức nhấn mạnh về sự hiệp nhất và vô song nơi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Thậm chí ngày nay, những người Do Thái thờ phượng trung tín đều đọc thuộc lòng bài tín điều “Shema” mỗi ngày:“Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một không hai! Ngươi phải kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi” (Phục truyền 6:4-5 NKJV). Đức Chúa Trời được bày tỏ trong Kinh Thánh không có ai ngang hàng và không có đối thủ.
Nhưng Cựu Ước cho những cái nhìn thoáng qua và những ngụ ý nói đến lẽ thật kỳ diệu về Ba Ngôi, một lẽ thật sau đó sẽ được bày tỏ rõ ràng bởi Đấng Christ và các sứ đồ. Những câu nói “chúng ta hãy” trong (Sáng Thế Ký 1:26 Sáng Thế Ký 3:22 Sáng Thế Ký 11:7 Ê-sai 6:8) gợi ý rằng các Ngôi của Đức Chúa Trời làm việc với nhau trong sự hội ý, và nhiều trường hợp khi “thiên sứ của Đức Giê-hô-va” xuất hiện chỉ về sự hiện diện của Con Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 16:7-1 Sáng Thế Ký 21:17 Sáng Thế Ký 22:11, 15 Sáng Thế Ký 24:7, 40 Sáng Thế Ký 31:11 Sáng Thế Ký 32:24-30 Xuất Ê-díp-tô 3:1-4 Công vụ 7:30-34 Công vụ 14:19 Sáng Thế Ký 23:20-26 Sáng Thế Ký 32:33-33:17 Gióp 5:13 Các Quan Xét 2:1-5 Các Quan Xét 6:11).
Đấng Mê-si-a (Đức Chúa Con) phán về chính Ngài, Đức Thánh Linh và Đức Giê-hô-va (Đức Cha) trong (Ê-sai 48:16-17 Ê-sai 61:1-3 Thi Thiên 2:7) xác định rằng Đức Giê-hô-va có một con trai. Chúa Giê-xu đã áp dụng c.7 cho chính Ngài khi Ngài thách thức những kẻ thù không thừa nhận Ngài là Con Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 22:41-46). Trong Sáng Thế Ký 1:2 và Sáng Thế Ký 6:3. Thánh Linh Đức Chúa Trời được phân biệt với Chúa (Đức Cha), và chính sự phân biệt này được tìm thấy trong (Dân Số Ký 27:18 Thi Thiên 51:11 Ê-sai 40:13 Ê-sai 48:16 A-mốt 2:4-5).
Mặc dù từ “Ba Ngôi” không được sử dụng nơi nào trong Kinh Thánh, nhưng giáo lý này chắc chắn có ở đó, được ẩn giấu trong Cựu Ước và được bày tỏ trong Tân Ước. Giáo lý sâu sắc và mầu nhiệm này có ý nghĩa thực tiễn gì cho tín hữu ngày nay không? Có, vì Ba Ngôi của Đức Chúa Trời đều có liên quan trong việc hoạch định và thực hiện ý muốn thiêng liêng đối với vũ trụ kể cả kế hoạch cứu rỗi.
Ba ngôi Đức Chúa trời đã hoạch định sự cứu chuộc. Kế hoạch cứu chuộc kỳ diệu không phải là một suy nghĩ đến sau của Đức Chúa Trời, vì dân sự Đức Chúa Trời đã được chọn trong Đấng Christ “trước khi sáng thế” (Ê-phê-sô 1:4 Khải Huyền 17:8) và được Cha giao cho Con để thuộc về Vương quốc Ngài (Ma-thi-ơ 25:34)và để dự phần vinh hiển Ngài (Giăng 17:2, 6, 9, 11-12, 24). Sự chết hy sinh của Con không phải là một tai nạn, đó là một sự chỉ định (Công vụ 2:23 Công vụ 4:27-28). Vì Ngài “đã bị giết từ buổi sáng thế” (Khải Huyền 13:8).
Trong những ý định về sự vĩnh cửu, Đức Chúa Trời đã quyết định sáng tạo một thế giới sẽ gồm có những con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời. Đức Cha có liên quan trong sự sáng tạo (Sáng Thế Ký 1:1 2Các vua 19:15 Công vụ 4:24), nhưng Đức Chúa Con (Giăng 1:1-3, 10 Cô-lô-se 1:16 Hê-bơ-rơ 1:2) và Đức Thánh Linh (Sáng Thế Ký 1:2 Thi Thiên 104:30) cũng có liên quan. Đức Chúa Trời không tạo ra một thế giới để đáp ứng nhu cầu của Ngài vì Ngài khôngcần bất cứ điều gì nhưng để Ngài có thể chia sẻ tình yêu Ngài với những tạo vật mà không giống như các thiên sứ, được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời và có thể tự nguyện đáp ứng với tình yêu của Ngài.
Đức Chúa Trời quyết định rằng Con sẽ đến trên đất và chịu chết vì tội lỗi thế gian, và Chúa Giê-xu đã đến để làm theo ý muốn của Cha (Giăng 10:17-18 Hê-bơ-rơ 10:7). Những lời Chúa Giê-xu phán đều đến từ Cha (Giăng 14:24) và những việc Ngài làm đều đã được Cha giao cho (Giăng 5:17-21, 36 Công vụ 2:22) và được Thánh Linh ban quyền năng (Sáng Thế Ký 10:38). Con làm vinh hiển Cha (Giăng 14:13 Giăng 17:1, 4) và Thánh Linh làm vinh hiển Con (Giăng 16:14). Các Ngôi của Ba Ngôi Thánh đồng công với nhau để thực hiện ý muốn thiêng liêng.
Theo Ê-phê-sô 1:3-14 kế hoạch cứu rỗi mang tính Ba Ngôi: chúng ta được Cha chọn lựa (c.3-6), được Con cứu chuộc (c.7-12) được Thánh Linh ấn chứng (c.13-14) [8] và tất cả mọi điều này là để ngợi khen vinh hiển của Đức Chúa Trời (c.6, 12, 14). Cha đã ban cho Con quyền ban sự sống đời đời cho những ai Ngài đã giao cho Con (Giăng 17:1-3). Mọi điều này đã được hoạch định trước khi có một thế giới!
Thật quan trọng để thấy rằng cả Ba Ngôi ở trong Đức Chúa Trời dự phần trong sự cứu rỗi tội nhân hư mất. Nói về Đức Chúa Cha, tôi đã được cứu khi Ngài nhân từ chọn tôi trong Đấng Christ trước khi sáng thế, nhưng tôi không biết gì về sự lựa chọn thiêng liêng mãi đến sau khi tôi được thay đổi [9] Nói về Đức Chúa Con, tôi đã được cứu khi Ngài chết thay tôi trên thập tự giá, và tôi biết lẽ thật tuyệt vời đó từ những ngày đầu của đời tôi. Nhưng nói về Đức Thánh Linh, tôi đã được cứu vào 5/1945 khi Thánh Linh Đức Chúa Trời lên án tôi và tôi tin nhận Chúa Giê-xu Christ. Khi đó điều mà Đức Chúa Trời đã hoạch định từ trước vô cùng đều xảy ra trong đời tôi.
Sự sanh thuộc linh là điều gì đó giống như sự sanh con người: Bạn kinh nghiệm nó nhưng phải mất thời gian để hiểu nó! Xét cho cùng, tôi sẽ không biết ngày sinh của tôi nếu ai đó không cho tôi biết. Chính sau khi chúng ta được sinh trong gia đình của Đức Chúa Trời thì sự kỳ diệu về điều đó đều được bày tỏ cho chúng ta từ Lời Chúa và khi ấy chúng ta muốn chia sẻ điều đó với người khác.
Khi bạn tìm cách thăm dò chiều sâu của những ý định thiêng liêng đời đời, bạn sẽ bị thất bại. Nhưng đừng nản lòng, vì qua bao thế kỷ, các học giả đức hạnh và tin kính đã bất đồng về những suy đoán và kết luận của họ. Một trong những giáo sư thần học viện của tôi thường nhắc nhở chúng tôi: “Cố tìm cách giải thích những điều này thì các bạn có thể mất trí, nhưng cố tìm cách bỏ qua chúng thì bạn sẽ mất linh hồn mình”.
Môi-se đã nói điều đó hay nhất: “Những sự bí mật thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, nhưng những sự được bày tỏ thuộc về chúng ta, và con cháu chúng ta đời đời, để chúng ta có thể làm theo mọi lời của luật pháp này” (Phục truyền 29:29 NKJV). Điều quan trọng không phải là biết mọi điều Đức Chúa Trời biết nhưng là làm mọi điều Đức Chúa Trời bảo chúng ta làm. “Vì chúng ta biết có giới hạn” (1Cô-rinh-tô 13:9).
2. Sáng Thế ký: sự cứu chuộc được hứa ban
Khi Đức Chúa Trời viết Kinh Thánh, Ngài không ban cho chúng ta một cuốn sách thần học nặng nề được chia thành những phân đoạn mang nhãn hiệu Đức Chúa Trời, sự sáng tạo, loài người, tội lỗi, v. v. . Ngược lại, Ngài ban cho chúng ta một câu chuyện, một ký thuật bắt đầu trong quá khứ vĩnh hằng và kết thúc trong tương lai vĩnh hằng. Đó là một câu chuyện về Đức Chúa Trời cùng những cách Ngài đối xử với mọi loại người và cách họ đáp ứng với Lời Ngài.Khi chúng ta đọc những ký thuật này, chúng ta học rất nhiều về Đức Chúa Trời, chính chúng ta và thế giới của chúng ta, và chúng ta khám phá rằng câu chuyện của cá nhân chúng ta được tìm thấy đâu đó trong những trang Kinh Thánh. Nếu bạn đọc đủ lâu và đủ thành thật, bạn sẽ gặp chính mình trong Kinh Thánh.
Trong những bản dịch Kinh Thánh của chúng ta thì Sáng Thế ký có 50 chương, nhưng nguyên bản Hê-bơ-rơ không được phân chia. Sau khi mô tả sự sáng tạo (Sáng Thế Ký 1:1-2:3), Môi-se liệt kê 11 “thế hệ” tạo nên ký thuật Sáng Thế ký: Trời và đất (Sáng Thế Ký 2:4-4:26), A-đam (Sáng Thế Ký 5:1-6:8), Nô-ê (Sáng Thế Ký 6:9-9:29), các con trai của Nô-ê, Sem, Cham và Gia-phết (Sáng Thế Ký 10:1-11:9) với một sự nhấn mạnh về Sem, tổ phụ của dân Xê-mít (Sáng Thế Ký 11:10-26), Tha-rê, cha của Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 11:27-25:11) Ích-ma-ên (Sáng Thế Ký 25:12-18), Y-sác (Sáng Thế Ký 25:19-35:29), Ê-sau (Sáng Thế Ký 36:1-8) cũng là Ê-đôm (Sáng Thế Ký 36:9- 37:1) và Gia-cốp (Sáng Thế Ký 37:2-50:26). Đây là những cá nhân được giới thiệu trong Sáng Thế ký.
Bảy chương đầu của Sáng Thế ký đề cập đến loài người nói chung và tập trung vào những sự kiện lớn: sự sáng tạo (c.1-2), sự sa ngã của loài người và những hậu quả của nó (c.3-5), Cơn Nước Lụt (c.6-9) và sự chống nghịch tại Ba-bên (c.10-11).Phần còn lại của Sáng Thế ký tập trung vào Y-sơ-ra-ên nói riêng (c.12-50) và tường thuật đời sống của bốn nhân vật vĩ đại: Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 12:1-25:18), Y-sác (Sáng Thế Ký 25:19-27:46), Gia-cốp (Sáng Thế Ký 28:1-36:43), và Giô-sép (Sáng Thế Ký 37:1-50:25) [10]. Chúng ta gọi những người này là “các tộc trưởng” vì họ là tổ phụ lập nên dân tộc Hê-bơ-rơ.
Khi bạn nghiên cứu Sáng Thế ký, hãy nhớ rằng Môi-se đã không viết một lịch sử chi tiết về mỗi người hay mỗi sự kiện. Ông chỉ ghi lại những sự việc giúp ông đạt đến mục đích của mình, là để giải thích nguồn gốc của mọi sự, đặc biệt là nguồn gốc của dân tộc Do Thái. Sáng Thế Ký 1:1-11:33 là một ghi chép về sự thất bại, nhưng với sự kêu gọi Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời đã tạo một khởi đầu mới. Tôi lỗi loài người đã đem đến sự rủa sả của Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 3:14, 17 Sáng Thế Ký 4:11), nhưng giao ước nhân từ của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham đã đem đến phước hạnh cho cả thế giới (Sáng Thế Ký 12:1-3).
Bạn cũng sẽ để ý trong sự ghi chép của Sáng Thế ký khi con người làm điều tồi tệ nhất và đi đến chỗ thấp nhất thì Đức Chúa Trời ban cho con người một khởi đầu mới. Tiến sĩ G. Campbell Morgan nói rằng chu kỳ trong Sáng Thế ký là “thế hệ, sự suy đồi và sự đổi mới” [11] Ca-in đã giết A-bên, nhưng Đức Chúa Trời ban Sết để tiếp tục dòng dõi tin kính. Đất trở nên đầy bạo lực và gian ác, vì vậy Đức Chúa Trời đã tiêu diệt loài người nhưng chọn Nô-ê và gia đình ông để thực hiện công việc Ngài. Tại U-rơ của xứ Canh-đê ngoại đạo, Đức Chúa Trời đã kêu gọi Áp-ra-ham với Sa-ra và ban cho họ một con trai. Y-sác, và tương lai về kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời tùy thuộc vào con trai ấy. Y-sác và Rê-bê-ca có hai con trai, Ê-sau và Gia-cốp nhưng Đức Chúa Trời từ chối Ê-sau và chọn Gia-cốp để xây dựng 12 chi phái Y-sơ-ra-ên và hưởng những phước hạnh của giao ước.
Nói cách khác, từ đầu đến cuối, Sáng Thế ký là câu chuyện về ý muốn tối cao và ân điển chọn lựa của Đức Chúa Trời. Điều này không gợi ý rằng những người trong câu chuyện chỉ là những rô-bốt, vì họ đã phạm những lỗi lầm và thậm chí tìm cách ngăn trở những kế hoạch của Đức Chúa Trời. Nhưng mỗi khi con người chống lại phép tắc của Đức Chúa Trời thì Ngài đều tể trị và thực hiện những mục đích thiêng liêng của Ngài. Ý định của Đức Giê-hô-va được vững lập đời đời, những kế hoạch của lòng Ngài còn đến mọi thế hệ” (Thi Thiên 33:11 NKJV).
Điều bắt đầu trong Sáng Thế ký được phát triển suốt Kinh Thánh và sau đó tìm thấy sự hoàn thành của nó trong sách Khải Huyền, như bạn có thể thấy từ tóm tắt này.
Sáng Thế ký | Khải Huyền |
- Trời và đất bắt đầu | - Trời và đất mới |
- Khu vườn đầu tiên, cây sự sống được canh giữ |
- “Thành là khu vườn” và cây sự sống có thể sử dụng |
- Hôn nhân đầu tiên |
- Hôn nhân cuối cùng, hôn nhân của Chiên Con |
- Sa-tan cám dỗ Ê-va phạm tội | - Sa-tan bị ném vào hồ lửa |
- Sự chết bước vào hiện trường | - “Không có sự chết” |
- Ba-by-lôn được xây dựng | - Ba-by-lôn bị tiêu diệt |
- Đấng Cứu Chuộc được hứa ban | - Đấng Cứu Chuộc cai trị |
Có nhiều so sánh và sự tương phản khác giữa 2 sách này, nhưng tóm tắt này cho bạn ý niệm nào đó về tầm quan trọng của Sáng Thế ký đối với một sự hiểu biết về chương trình của Đức Chúa Trời và phần còn lại của Kinh Thánh.
3. Sau Sáng Thế ký: sự cứu chuộc thực hiện
Đức Chúa Trời đã bày tỏ kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Ngài dần dần. Trước tiên, Ngài ban một lời hứa (Sáng Thế Ký 3:15), là lời hứa về sự cứu rỗi đầu tiên được tìm thấy trong Kinh Thánh. Đó là lời hứa về một Đấng Cứu Chuộc sẽ được sinh ra bởi một người nữ, đánh bại Sa-tan và đem sự cứu rỗi đến cho nhân loại. Chúa Cứu Thế được hứa ban sẽ là một con người chớ không phải một thiên sứ và sẽ cứu loài người chớ không không những thiên sứ sa ngã (Hê-bơ-rơ 2:5-18).
Đấng Cứu Chuộc được hứa ban này sẽ từ đâu đến? (Sáng Thế Ký 12:1-3) trả lời câu hỏi đó: Đấng Cứu Chuộc sẽ là một người Do Thái, từ dân tộc của Áp-ra-ham. Qua một phép lạ của Đức Chúa Trời, Áp-ra-ham và Sa-ra có Y-sác, và Y-sác là cha của Gia-cốp. Nhưng Gia-cốp có 12 con trai là những người đã sáng lập 12 chi phái Y-sơ-ra-ên. Chi phái nào sẽ ban cho thế giới Chúa Cứu Thế? (Sáng Thế Ký 49:10) cho chúng ta biết: Đấng Cứu Chuộc sẽ đến từ chi phái Giu-đa.
Sách Xuất Ê-díp-tô ký cho biết thế nào Đức Chúa Trời đã xây dựng dân tộc Hê-bơ-rơ vĩ đại khi họ chịu khổ trong xứ Ê-díp-tô, và sau đó giải phóng họ bởi đại quyền của Ngài. Lẽ ra họ phải giành được di sản mình ở Ca-na-an, nhưng trong sự vô tín họ đã bất tuân Đức Chúa Trời và đi đến chỗ lang thang 40 năm trong hoang mạc (Dân Số Ký 13:1-14:45). Giô-suê đã dẫn dắt thế hệ mới vào xứ và ở đó thiết lập quốc gia.
Sau kỷ nguyên bi thảm về sự cai trị của Các quan xét và sự trì vì của Sau-lơ, được chép trong sách Các quan xét, và ISa-mu-ên, Đức Chúa Trời đã xức dầu cho Đa-vít làm vua và tỏ cho biết rằng Đấng Cứu Chuộc được hứa ban sẽ đến từ dòng dõi Đa-vít (2Sa-mu-ên 7:1-29). Ngài sẽ không những là “con cháu Đa-vít”, mà sẽ sinh ra ở Bết-lê-hem, thành Đa-vít (Mi-chê 5:1). Qua tiên tri Ê-sai Đức Chúa Trời tuyên bố rằng Đấng Cứu Chuộc sẽ được sinh ra bởi một nữ đồng trinh một cách kỳ diệu (Ê-sai 7:14 Lu-ca 1:26-38).
Dĩ nhiên, suốt những thời đại Cựu Ước, Sa-tan đã làm mọi điều nó có thể để ngăn trở những kế hoạch của Đức Chúa Trời. Ca-in thuộc về ma quỉ (1Giăng 3:12) và đã giết A-bên em trai mình, nhưng Đức Chúa Trời đã ban Sết để tiếp nối dòng dõi tin kính (Sáng Thế Ký 4:25-26). Suốt Cơn Nước Lụt, Đức Chúa Trời giữ lại Nô-ê cùng gia đình ông và từ gia đình của Sem, Áp-ra-ham được sinh ra, là tổ phụ của dân tộc Hê-bơ-rơ.
Ít nhất vào 4 thời điểm, dòng dõi tin kính đã bị đe dọa bởi sự tiệt chủng. Hai lần Áp-ra-ham đã nói dối về Sa-ra vợ ông và bà bị các vua ngoại đạo đem đi (Sáng Thế Ký 12:10-20 Sáng Thế Ký 20:1), và con trai ông là Y-sác đã phạm tội tương tự và gây nguy hiểm cho vợ mình là Rê-bê-ca (Sáng Thế Ký 26:6-16). Suốt những này tối tăm của nền quân chủ Hê-bơ-rơ, sau đó nữ hoàng A-tha-lia gian ác đã ra lệnh giết hết thảy con vua, nhưng một vị hoàng tử nhỏ, Giô-ách, được cứu thoát để tiếp nối dòng Đa-vít (2Các vua 11:1-21).
Điều đó kết thúc ra sao? “Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới luật pháp, để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp” (Ga-la-ti 4:4-5 NKJV). Thiên sứ đã loan báo cho những người chăn chiên: “Ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu Thế, là Christ là Chúa” (Lu-ca 2:11).
Lời hứa đã được làm trọn! Và tất cả bắt đầu ở Sáng Thế ký!
Giờ đây chúng ta hãy dự phần với Môi-se và đọc sự ghi chép hùng hồn đầy thần cảm của ông về sự sáng tạo trời, đất và sự sống loài người.
Một số người gọi Tổng thống nước Mỹ là “người lãnh đạo uy quyền nhất thế giới”, nhưng nhiều cựu tổng thống sẽ không đồng ý. Các cựu Tổng thống đã thú nhận rằng mệnh lệnh hành pháp của họ không phải lúc nào cũng được vâng theo và họ không thể làm được gì nhiều cho điều đó.
Chẳng hạn, suốt nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Nixon, ông ra lệnh cất bỏ những toà nhà tạm bợ xấu xí trên thương xá, những cái chướng mắt đã ở đó từ thời đại Thế chiến thứ I, nhưng phải mất nhiều tháng trước khi lệnh này được tuân hành. Khi các nhà báo bắt đầu viết về “chức Tổng thống uy quyền”, Nixon đã gọi toàn bộ ý tưởng này là “lố lăng” [12]Tổng thống có thể nói và ký vào những mệnh lệnh chính thức, nhưng điều đó không đảm bảo rằng bất cứ điều gì sẽ xảy ra.
Tuy nhiên, khi Đức Chúa Trời phán, điều gì đó xảy ra! “Vì Ngài phán thì việc được thực hiện; Ngài ra lệnh, thì vật đứng vững bền!” (Thi Thiên 33:9 NKJV). Khi bạn xem xét những hành động của Đức Chúa Trời được chép trong Sáng Thế Ký 1:1-31, bạn không khỏi quỳ xuống trong sự thờ phượng tôn kính, vì những hành động sáng tạo của Ngài bày tỏ một Đức Chúa Trời quyền năng và khôn ngoan có lời phán mang uy quyền.
2. KHI ĐỨC CHÚA TRỜI PHÁN, ĐIỀU GÌ ĐÓ XẢY RA (Sáng Thế Ký 1:1-31)
1. Đức Chúa Trời sáng tạo (Sáng Thế Ký 1:1-2)
Ba sách của Kinh Thánh bắt đầu với “Ban đầu” (Sáng Thế Ký 1:1 Mác 1:1 Giăng 1:1). Mỗi khởi đầu này thật quan trọng. “Ban đầu có Ngôi Lời” (Giăng 1:1) đưa chúng ta vào quá khứ vĩnh hằng khi Chúa Giê-xu Christ, Ngôi Lời hằng sống của Đức Chúa Trời, đã tồn tại với tư cách Con đời đời của Đức Chúa Trời. Giăng không gợi ý rằng Chúa Giê-xu có một khởi đầu. Chúa Giê-xu Christ là Con đời đời của Đức Chúa Trời Đấng đã tồn tại trước muôn vật vì Ngài đã tạo nên muôn vật (Sáng Thế Ký 1:3 Cô-lô-se 1:16-17 Hê-bơ-rơ 1:2). Vì thế, “ban đầu” của Giăng xảy ra trước Sáng Thế Ký 1:1) [13]
Phúc Âm của Mác mở đầu với “Đầu Tin Lành của Đức Chúa Giê-xu Christ Con Đức Chúa Trời”. Sứ điệp Phúc Âm không bắt đầu với chức vụ của Giăng Báp-tít, vì tin mừng về ân điển của Đức Chúa Trời đã được rao ra trong Sáng Thế Ký 3:15. Như (Hê-bơ-rơ 11:1-40) làm chứng, lời hứa của Đức Chúa Trời được con người tin theo suốt lịch sử Cựu Ước và những người tin đều được cứu (Ga-la-ti 3:1-9 và Rô-ma 4:1-25). Chức vụ của Giăng Báp-tít, người báo trước về Chúa Giê-xu, là khởi đầu sự rao báo sứ điệp về Chúa Giê-xu Christ ở Na-xa-rét (Công vụ 1:21-22 Công vụ 10:37).
“Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất” (Sáng Thế Ký 1:1) đề cập đến quá khứ bất tận khi Đức Chúa Trời hình thành vũ trụ từ chỗ không có gì (Thi Thiên 33:6 Rô-ma 4:17 Hê-bơ-rơ 1:3) [14] Sáng Thế Ký 1:1-2 là sự tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên vũ trụ, sự giải thích chi tiết về 6 ngày của công tác sáng tạo của Đức Chúa Trời được trình bày trong phần còn lại của chương.
Ba mươi hai lần trong chương này, Đức Chúa Trời sáng tạo được gọi là “Elohim” một từ Hê-bơ-rơ nhấn mạnh sự uy nghi và quyền năng của Ngài. (Danh giao ước “Đức Giê-hô-va” xuất hiện lần đầu tiên trong Sáng Thế Ký 2:4). “Elohim” là một danh từ số nhiều được sử dụng thích hợp có liên quan với những động từ và tính từ số ít. (Các thì của tiếng Hê-bơ-rơ ở số ít, số ít lẫn số nhiều, hoặc số nhiều). Một số người nghĩ rằng dạng số nhiều này là điều mà các nhà ngữ pháp gọi là “số nhiều về sự uy nghi”, hoặc nó cũng có thể là một ngụ ý rằng Đức Chúa Trời tồn tại trong Ba Ngôi. Trong Kinh Thánh sự sáng tạo đuợc qui cho Cha (Công vụ 4:24), Con (Giăng 1:1-3) và Thánh Linh (Thi Thiên 104:30).
“Elohim”bày tỏ quyền năng của Ngài bằng cách sáng tạo mọi vật chỉ bởi phán ra lời. Vật chất không phải là đời đời, nó bắt đầu khi mọi vật bắt đầu hiện hữu bởi lời phán của Đức Chúa Trời (Ê-phê-sô 3:9 Cô-lô-se 1:16 Khải Huyền 4:11 Khải Huyền 5:13). Kinh Thánh không bày tỏ vì sao Đức Chúa Trời quyết định bắt đầu công việc sáng tạo của Ngài với một đống hỗn độn tối tăm, vô hình và trống không [15], sẽ đem đến trật tự từ chỗ hỗn độn và sự xinh đẹp cùng sự đầy đủ từ chỗ trống [16] không Ngài vẫn có thể làm điều đó hôm nay với đời sống của tất cả những ai đầu phục Ngài.
Các quốc gia quanh dân Y-sơ-ra-ên đã có những truyền thống cổ xưa “giải thích”nguồn gốc của vũ trụ và loài người. Những chuyện thần thoại này nói về những quái vật chiến đấu ở các đại dương sâu thẳm và các thần tham chiến để hình thành vũ trụ. Nhưng câu chuyện đơn giản trong Sáng Thế ký giới thiệu với chúng ta một Đức Chúa Trời Đấng duy nhất sáng tạo mọi vật và vẫn điều khiển sự sáng tạo của Ngài. Nếu dân Do Thái để ý kỹ điều Môi-se viết, họ sẽ không bao giờ thờ phượng các hình tượng của những người láng giềng ngoại đạo.
2. Đức Chúa Trời hình thành (Sáng Thế Ký 1:3-13)
Có một kiểu mẫu cho những hoạt động của Đức Chúa Trời suốt tuần lễ sáng tạo: Trước hết Ngài hình thành và sau đó Ngài làm cho đầy dẫy. Ngài tạo ra 3 phạm vi hoạt động: trời, đất và nước. Và sau đó Ngài làm đầy dẫy chúng với những dạng sự sống thích hợp.
Ngày thứ nhất (Sáng Thế Ký 1:3-5).Đức Chúa Trời ra lệnh cho ánh sáng chiếu ra và phân cách ánh sáng với bóng tối.Nhưng làm sao có thể có ánh sáng khi các vì sáng đến ngày thứ tư mới được đề cập đến? (c.14-19). Vì chúng ta không được cho biết rằng sự sáng này đến từ bất cứ vật sáng nào Đức Chúa Trời đã dựng nên, nó có thể đến từ chính Đức Chúa Trời là Sự Sáng (Giăng 1:5) và mang lấy sự sáng vô tận mà không cần có sự giúp đỡ của mặt trời hay mặt trăng (Khải Huyền 22:5), vậy tại sao lại không thể có ánh sáng từ ban đầu trước khi các vật sáng được tạo nên? [17]
Như chúng ta biết, sự sống không thể tồn tại mà không có ánh sáng mặt trời. Phao-lô đã nhìn thấy trong hành động sáng tạo này công việc của Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo mới, là sự cứu rỗi những kẻ hư mất. “Vì Đức Chúa Trời là Đấng đã ra lệnh cho sự sáng phải soi từ trong tối tăm, đã soi sáng trong lòng chúng tôi để ban ánh sáng của sự thông biết về vinh hiển Đức Chúa Trời nơi mặt Đức Chúa Giê-xu Christ” (2Cô-rinh-tô 4:6 NKJV). “Trong Ngài (Chúa Giê-xu) có sự sống, và sự sống là sự sáng của loài người” (Giăng 1:4).
Trong Kinh Thánh, sự sáng có liên quan đến Đấng Christ (Giăng 8:12), Lời Đức Chúa Trời (Thi Thiên 119:105, 130), dân sự Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 5:14-16 Ê-phê-sô 5:8), và phước hạnh của Đức Chúa Trời (Châm Ngôn 4:18), còn sự tối tăm có liên quan đến Sa-tan (Lu-ca 23:53 Ê-phê-sô 6:12), tội lỗi (Ma-thi-ơ 6:22-23 Giăng 3:19-21), sự chết (Gióp 3:4-6, 9), sự ngu dốt thuộc linh (Giăng 1:5) và sự xét đoán thiêng liêng (Ma-thi-ơ 8:12). Điều này giải thích lý do Đức Chúa Trời phân cách sự sáng với sự tối tăm, vì cả 2 không có chung điều gì. Dân sự Đức Chúa Trời phải “bước đi trong sự sáng” (1Giăng 1:5-10) vì “sự sáng có mối giao thông vào với sự tối chăng?” (2Cô-rinh-tô 6:14-16 Ê-phê-sô 5:1-14).
Ngay ngày đầu tiên của sự sáng tạo, Đức Chúa Trời đã thiết lập nguyên tắc về sự phân rẽ. Ngài không chỉ phân rẽ sự sáng với sự tối (Sáng Thế Ký 1:4) và ngày với đêm (c.14), nhưng sau đó Ngài còn phân rẽ nước ở phía trên với nước ở phía dưới (c.6-8), và đất với nước (c.9-10). Qua Môi-se, Đức Chúa Trời đã ra lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên phân rẽ khỏi những dân tộc quanh họ (Xuất Ê-díp-tô 34:10-17 Phục truyền 7:1-11) và khi họ vi phạm mệnh lệnh này, họ bị hoạn nạn. Dân sự Đức Chúa Trời ngày nay cần phải cẩn thận trong cách ăn ở của mình (Thi Thiên 1:1) và đừng bị ô uế bởi thế gian (Rô-ma 12:1-2 Gia-cơ 1:7 4:4 1Giăng 2:15-17).
Vì Đức Chúa Trời là Đấng Sáng tạo, Ngài có quyền gọi mọi vật là gì Ngài muốn. Và vì vậy chúng ta có “ngày” và “đêm”. Từ “ngày” có thể chỉ về phần thời gian 24 giờ đồng hồ gồm có “buổi chiều tối và buổi mai” (Sáng Thế Ký 1:5) [18] Đôi khi những người viết Kinh Thánh sử dụng “ngày”để mô tả một khoảng thời gian dài hơn trong đó Đức Chúa Trời thực hiện mục đích đặc biệt nào đó, chẳng hạn như “ngày của Đức Giê-hô-va” (Ê-sai 2:12) hoặc “ngày phán xét” (Ma-thi-ơ 10:15).
Khi chúng ta nói về những điều thuộc linh, thật quan trọng để chúng ta sử dụng từ điển của Đức Chúa Trời cũng như từ ngữ của Ngài. Những từ ngữ mang những ý nghĩa riêng, và việc cho một ý nghĩa sai đối với một từ có thể dẫn đến rắc rối nghiêm trọng. Nó sẽ gây chết người đối với bệnh nhân nếu một thầy thuốc lẫn lộn “arsenic” với “aspirin” vì vậy những người giới y học rất cẩn thận để sử dụng danh từ chuyên môn chính xác. “Từ vựng Cơ Đốc” thậm chí quan trọng hơn vì sự chết đời đời có thể là hậu quả của sự nhầm lẫn. Kinh Thánh giải thích và minh hoạ những từ như tội lỗi, ân điển, sự tha thứ, sự xưng công nghĩa và đức tin. Và thay đổi ý nghĩa của chúng là thay thế chân lý của Đức Chúa Trời bằng những sự dối trá. “Khốn thay cho kẻ gọi dữ là lành, gọi lành là dữ, lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối vật chi cay trở cho là ngọt, vật chi ngọt trở cho là cay” (Ê-sai 5:20).
Ngày thứ nhì (Sáng Thế Ký 1:6-8).Đức Chúa Trời đặt một khoảng không giữa nước ở phía trên với nước ở phía trước và tạo ra “trời” cái mà chúng ta biết là “bầu trời”. Dường như nước này là một “tấm mền” hơi nước phủ lên khối sáng tạo ban đầu. Khi được phán cách với đất, nước ở phía dưới cuối cùng trở thành đại dương và biển, còn nước ở phía trên đóng một vai trò trong Cơn Nước Lụt thời Nô-ê (Sáng Thế Ký 7:11-12 Sáng Thế Ký 9:11-15).
Từ được dịch là “bầu trời” (khoảng không) nghĩa là “đập bẹt ra”. Trong Kinh Thánh, bầu trời đôi khi được đề cập như một cái vòm hay một vật che phủ, tuy nhiên, không chỗ nào Kinh Thánh ủng hộ ý niệm thần thoại ngoại đạo rằng bầu trời là loại lớp che phủ rắn chắc nào đó. Những vì sáng được đặt trong khoảng không này (Sáng Thế Ký 1:14-17)và đó là nơi chim bay (c.20).
Ngày thứ ba (c.9-13).Đức Chúa Trời gom nước lại và làm cho đất khô xuất hiện, vì vậy tạo ra “đất” và “biển”. Những láng giềng ngoại đạo của Y-sơ-ra-ên tin mọi loại chuyện thần thoại về trời, đất, và biển, nhưng Môi-se cho biết rõ ràng Elohim, Đức Chúa Trời chân thật duy nhất, là Chúa của tất cả. Vì lần đầu tiên Đức Chúa Trời phán rằng điều Ngài đã làm là “tốt lành” (c.10). Sự sáng tạo của Đức Chúa Trời vẫn tốt lành, dù nó chịu khó nhọc vì tội lỗi (Rô-ma 8:20-22) bị tàn phá và bị bóc lột bởi con người tội lỗi.
Đức Chúa Trời cũng khiến sự sống thực vật xuất hiện trên đất: cỏ, cỏ kết hột giống và các cây sinh quả. Đức Chúa Trời định rằng mỗi thứ sẽ sinh sôi “tuỳ theo loại” giúp tạo ra trật tự hợp lý trong thiên nhiên. Đức Chúa Trời đặt những giới hạn sinh sản cho cả thực vật và động vật (Sáng Thế Ký 1:21) vì Ngài là Chúa của sự sáng tạo. Ở đây không có gợi ý gì về bất kỳ “sự tiến hóa” nào. Đức Chúa Trời chuẩn bị đất để loài người và loài vật ở, và loài cây cỏ để giúp cung cấp thực phẩm cho chúng. Lần thứ hai, Đức Chúa Trời phán rằng công việc của Ngài là tốt lành (c.12)
3. Đức Chúa Trời làm cho đầy dẫy (Sáng Thế Ký 1:3-13) (Sáng Thế Ký 1:24-27 Sáng Thế Ký 2:7)
Đức Chúa Trời giờ đây tạo ra ba “khoảng trống” đặc biệt: đất, biển và khoảng không của bầu trời. Suốt 3 ngày sáng tạo, Ngài sẽ làm đầy dẫy những khoảng trống này.
Ngày thứ tư (Sáng Thế Ký 1:14-19).Đức Chúa Trời đặt trong khoảng trống của bầu trời những thiên thể và định công việc của chúng: phân ra ngày với đêm và cung cấp “những dấu hiệu” để đánh dấu ngày, năm và mùa. Sự sáng đã xuất hiện vào ngày thứ nhất, nhưng giờ đây nó được tập trung trong những thiên thể này.
Vì những quy tắc tôn giáo của mình, dân Do Thái cần biết thời gian và mùa, khi nào ngày Sa-bát đến và chấm dứt, khi nào là một tháng mới và khi nào là thời gian để giữ những kỳ lễ hàng năm (Lê-vi Ký 26:1-46). Trước khi có sự phát minh đồng hồ và la bàn, những hoạt động của đời sống con người được ràng buộc chặt chẽ với những chu kỳ của thiên nhiên, và tàu bè tùy thuộc vào những ngôi sao để hướng dẫn chúng. Y-sơ-ra-ên sẽ cần sự giúp đỡ của các thiên thể để hướng dẫn những hoạt động của họ, và Đức Chúa Trời đôi khi sẽ sử dụng những dấu hiệu trên trời để phán với dân sự Ngài trên đất. [19]
Y-sơ-ra-ên được ra lệnh không nên bắt chước những láng giềng ngoại đạo của họ bằng cách thờ phượng những thiên thể (Xuất Ê-díp-tô 20:1-6 Phục truyền 4:15-19 Phục truyền 17:2-7). Họ phải thờ phượng Đức Chúa Trời chân thật Đấng đã dựng nên “thiên binh”, đội quân trên trời làm theo mệnh lệnh của Ngài. Tuy nhiên, dân Do Thái đã không vâng theo điều răn của Đức Chúa Trời (Giê-rê-mi 8:2 Giê-rê-mi 19:13 Ê-xê-chiên 8:16 Sô-phô-ni 1:4-6) và chịu nhiều hoạn nạn về tội lỗi của họ.
Người xưa bị mê hoặc bởi mặt trăng với các ngôi sao cùng những chuyển động của mặt trời với các hành tinh, và đó chỉ là một bước ngắn từ sự thán phục đến sự thờ phượng. Ralph Waldo Emerson đã viết: “Nếu các ngôi sao phải xuất hiện một đêm trong một ngàn năm, làm sao con người sẽ tin, tôn thờ và duy trì nhiều thế hệ kỷ niệm về thành của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ…” [20]
Ngày thứ năm (Sáng Thế Ký 1:20-23).Đức Chúa Trời đã tạo ra bầu trời và nước, và giờ đây Ngài làm đầy dẫy chúng với những sinh vật. Ngài tạo ra loài chim để bay trên bầu trời và sinh vật dưới nước để nô đùa dưới biển. “Hỡi Đức Giê-hô-va công việc Ngài nhiều biết bao!Ngài đã tạo nên hết thảy trong sự khôn ngoan. Trái đất đầy dẫy tài sản Ngài. Biển lớn và rộng này, trong đó là vô số các vật, những sinh vật nhỏ và lớn” (Thi Thiên 104:24-25 NKJV).
Một yếu tố mới được thêm vào công việc của Đức Chúa Trời vào ngày này: Ngài không chỉ gọi công việc Ngài là “tốt lành”, Ngài còn ban phước cho những tạo vật Ngài đã dựng nên. Đây là lần đầu tiên từ “ban phước” được sử dụng trong Kinh Thánh. Sự ban phước của Đức Chúa Trời giúp các tạo vật và loài chim có thể sinh sản đầy dẫy và hưởng mọi điều Ngài đã làm cho chúng. Đức Chúa Trời cũng ban phước cho người nam và người nữ đầu tiên (Sáng Thế Ký 1:28 Sáng Thế Ký 5:2), ngày Sa-bát (Sáng Thế Ký 2:3) và Nô-ê với gia đình ông (Sáng Thế Ký 9:2). Sau sự sáng tạo, có thể dịp quan trọng nhất cho sự ban phước của Đức Chúa Trời là khi Ngài ban giao ước nhân từ của Ngài cho Áp-ra-ham và con cháu ông (Sáng Thế Ký 12:1-3). Phước hạnh đó đã đến với dân sự Đức Chúa Trời ngày nay (Ga-la-ti 3:1-9).
Ngày thứ sáu (c.24-31 Sáng Thế Ký 2:7). Đức Chúa Trời đã tạo nên bầu trời và làm đầy dẫy nó với những thiên thể phát sáng cùng các loài chim bay. Ngài đã tạo nên biển và làm đầy dẫy nước với nhiều sinh vật dưới nước. Sự sáng tạo đạt đến đỉnh điểm của nó khi vào ngày thứ 6 Ngài làm đầy dẫy đất bằng sự sống của loài vật và sau đó dựng nên người nam đầu tiên, là người cùng với vợ mình sẽ có quyền quản trị trên đất và những sinh vật của đất.
Giống như người nam đầu tiên, các loài vật đã được tạo nên từ bụi đất (Sáng Thế Ký 2:7) điều này giải thích vì sao thân xác của loài người lẫn loài vật trở về với bụi đất sau khi chết (Truyền Đạo 3:19-20). Tuy nhiên, loài người và loài vật khác nhau. Cho dù một số loài vật có vẻ thông minh ra sao, hay chúng được dạy dỗ ở mức độ nào, loài vật không được phú cho “hình ảnh của Đức Chúa Trời” như loài người. [21]
Sự sáng tạo người nam đầu tiên được xem như một cơ hội rất đặc biệt, vì có một “cuộc hội đàm”trước sự kiện này. “Chúng ta hãy làm nên loài người như hình chúng ta” nghe như kết luận của một suy nghĩ thận trọng thiêng liêng trong vòng các Ngôi của Đức Chúa Trời. [22] Đức Chúa Trời không thể nói với các thiên sứ về những kế hoạch của Ngài vì các thiên sứ không được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời (“hình Ta”) và các thiên sứ không có liên quan gì với sự sáng tạo A-đam.
“Đức Giê-hô-va nắn nên người từ bụi đất, hà sanh khí vào lỗ mũi người, và người trở nên một loài sanh linh” (Sáng Thế Ký 2:7). Động từ “nắn nên” gợi ý người thợ gốm thực hiện một tác phẩm nghệ thuật bằng đôi tay khéo léo của mình. Thân thể loài người thật sự là một tác phẩm nghệ thuật, một cơ quan phức tạp đến kỳ diệu mà chỉ có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời mới có thể sắp đặt và quyền năng của Đức Chúa Trời tạo nên.
Thể chất cho thân xác của A-đam đến từ đất, vì tên “A-đam” nghĩa là “được đem ra từ đất”, nhưng sự sống A-đam có đến từ Đức Chúa Trời. Dĩ nhiên, Đức Chúa Trời là thần và không có phổi để thở. Nhận định này là điều mà các nhà thần học gọi là một “Thần nhân đồng hình thuyết” (thuyết hình người), là việc sử dụng đặc điểm của loài người để giải thích một công việc hay thuộc tính thiên thượng. [23]
Nhiều sự thật quan trọng phải được để ý về nguồn gốc của loài người. Trước hết, chúng ta được Đức Chúa Trời dựng nên. Chúng ta không phải là những sản phẩm của một sự cố ngân hà nào đó, cũng không phải là những kẻ chiếm giữ thanh ngang cao nhất của chiếc thang tiến hoá. Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta, nghĩa là chúng ta là những tạo vật và hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài. “Vì trong Ngài, chúng ta được sống động và có” (Công vụ 17:28). Lu-ca 3:38 gọi A-đam là “con Đức Chúa Trời”.
Thứ hai, chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 2:26-27), không giống như các thiên sứ và loài vật, con người có thể có một mối liên hệ đặc biệt với Đức Chúa Trời. Ngài không chỉ ban cho chúng ta nhân cách, tâm trí để suy nghĩ, những cảm xúc để cảm nhận, và ý chỉ để thực hiện những quyết định. Ngài còn ban cho chúng ta một bản chất thuộc linh bên trong giúp chúng ta có thể biết Ngài và thờ phượng Ngài. Hình ảnh Đức Chúa Trời trong người nam và người nữ đã bị làm hư hỏng bởi tội lỗi (Ê-phê-sô 4:18-19), nhưng bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ và sự đầu phục công việc của Thánh Linh, tín hữu có thể có bản chất thiêng liêng được đổi mới trong họ (2Phi-e-rơ 1:4 Ê-phê-sô 4:20-24 Cô-lô-se 3:9-10 Rô-ma 12:2 2Cô-rinh-tô 3:18). Một ngày nào đó khi chúng ta gặp Chúa Giê-xu, mọi con cái Đức Chúa Trời sẽ dự phần trong hình ảnh vinh hiển của Đấng Christ (1Giăng 3:1-3 Rô-ma 8:29 1Cô-rinh-tô 15:49). [24]
Thứ ba, chúng ta được dựng nên để có quyền quản trị đất (c.26-28). A-đam và Ê-va là những người đầu tiên quản trị sự sáng tạo của Đức Chúa Trời (Thi Thiên 8:6-8). “Trời, thậm chí các tầng trời đều thuộc về Đức Giê-hô-va, nhưng Ngài đã ban đất cho con cái loài người” (Thi Thiên 115:116 NKJV). Nhưng khi A-đam tin lời giả dối của Sa-tan và ăn trái cấm, ông đánh mất vương quyền, và giờ đây tội lỗi cùng sự chết cai trị đất (Rô-ma 5:12-21).
Khi Chúa Giê-xu Christ, A-đam sau cùng (1Cô-rinh-tô 15:45) đến trần gian, Ngài thực thi quyền tể trị mà A-đam đầu tiên đã đánh mất. Ngài bày tỏ rằng Ngài có quyền trên loài cá (Lu-ca 5:1-7 Giăng 21:1-6 Ma-thi-ơ 17:24-27), loài chim (Ma-thi-ơ 10:29) và loài thú (Mác 1:13 Mác 11:3-7) khi Ngài chết trên thập tự giá, Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, để giờ đây ân điển có thể trị vì (Rô-ma 5:21) và dân sự Đức Chúa Trời có thể “trị vì trong sự sống” nhờ Chúa Giê-xu Christ (c.17). Ngày nào đó khi Ngài tái lâm, Chúa Giê-xu sẽ phục hồi cho chính Ngài quyền thống trị đã bị đánh mất vì A-đam (Hê-bơ-rơ 2:5).
Cả A-đam và loài vật đều là những loài ăn rau quả cho đến sau Cơn Nước Lụt (Sáng Thế Ký 1:29-30 Sáng Thế Ký 9:1-4 Ê-sai 11:7 cho thấy loài thú ăn thịt sẽ trở lại với thức ăn này khi Chúa Giê-xu Christ tái lâm và thiết lập Vương quốc Ngài trên đất.
Thứ tư, Đấng sáng tạo kỳ diệu này xứng đáng được sự thờ phượng, ca ngợi và vâng phục của chúng ta. Khi Đức Chúa Trời xem xét sự sáng tạo của Ngài, Ngài thấy điều đó “rất tốt lành” (Sáng Thế Ký 1:31). Trái với điều mà một số tôn giáo và triết học dạy, sự sáng tạo không phải là điều xấu và hưởng những sự ban cho tốt lành mà Đức Chúa Trời chia sẻ với chúng ta không phải là một tội lỗi (1Ti-mô-thê 6:17). Đa-vít xem xét sự sáng tạo của Đức Chúa Trời và hỏi: “Loài người là gì mà Chúa nhớ đến?Con loài người là chi mà Chúa thăm viếng nó?” (Thi Thiên 8:4). Trái đất chỉ là một hành tinh nhỏ xíu quay trong một dải ngân hà bao la, nhưng “đất thuộc về Đức Giê-hô-va” (Thi Thiên 24:1). Đó là một hành tinh được Ngài chọn để thăm viếng và để cứu chuộc.
Các tạo vật trên trời ở trước ngôi Đức Chúa Trời ngợi khen Ngài vì sự sáng tạo của Ngài, và chúng ta cũng phải làm như vậy. “Lạy Chúa, Chúa đáng được vinh hiển, tôn quí và quyền lực, vì Chúa đã dựng nên muôn vật, và ấy là vì ý Chúa muốn mà muôn vật mới có và đã được được dựng nên” (Khải Huyền 4:11). Khi chúng ta cúi xuống trước bữa ăn để cảm tạ Ngài vì thức ăn Ngài cung cấp, khi chúng ta nhìn thấy ánh mặt trời cùng cơn mưa được ban cho chúng ta miễn phí, và khi chúng ta quan sát tiến trình của các mùa, chúng ta phải dâng lòng mình để ca ngợi Đấng sáng tạo vì sự thành tín và rời rộng của Ngài.
Cuối cùng, chúng ta phải là những quản gia tốt của sự sáng tạo. Điều này có nghĩa chúng ta phải tôn trọng đồng loại là những người cũng được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 9:6). Điều này nghĩa là đánh giá cao những sự ban cho chúng ta trong sự sáng tạo chớ không phải lãng phí hay bóc lột chúng. Chúng ta sẽ nhìn vào những vấn đề này trong chi tiết lớn hơn ở những bài học khác, nhưng đáng chú ý rằng chúng ta không thể tôn trọng Đức Chúa Trời của sự sáng tạo nếu chúng ta không tôn trọng sự sáng tạo của Ngài. Chúng ta phải tiếp nhận sự sáng tạo như một món quà, bảo vệ nó như một của báu, và đầu tư nó vì vinh hiển của Đức Chúa Trời, Isaac Watts đã nói điều đó một cách tốt đẹp:
Tôi ca ngợi sự nhân từ của Chúa
Đã làm đầy dẫy đất thức ăn;
Ngài đã nắn nên các tạo vật bằng Lời Ngài,
Và rồi công bố chúng là tốt lành.
Hỡi Chúa, những sự kỳ diệu của Ngài được tỏ ra dường bao,
Bất cứ nơi đâu tôi hướng mắt mình đến;
Nếu tôi xem xét đất mình bước lên
Hoặc nhìn chăm lên bầu trời.
“Đức Giê-hô-va là tốt lành cho tất cả, và sự thương xót dịu dàng của Ngài giáng trên mọi công việc Ngài” (Thi Thiên 145:9).
Sáng Thế Ký 1:14-27 xem giải nghĩa Sáng Thế Ký 3-13
3. NHỮNG VIỆC ĐẦU TIÊN TRƯỚC HẾT (Sáng Thế Ký 2:1-25)
Nếu bạn có thể hiện diện để chứng kiến bất cứ sự kiện nào trong lịch sử Kinh Thánh, bạn sẽ chọn sự kiện nào?
Tôi từng đặt câu hỏi đó với nhiều lãnh đạo Cơ Đốc nổi tiếng, và những câu trả lời đều khác nhau: sự đóng đinh Đấng Christ trên thập tự giá, sự phục sinh của Đấng Christ, Cơn Nước Lụt, Y-sơ-ra-ên đi qua Biển Đỏ và thậm chí Đa-vít giết Gô-li-át. Nhưng một người trong số họ nói: “Tôi thích có mặt khi Đức Chúa Trời hoàn tất sự sáng tạo của Ngài. Đó chắc hẳn là một cảnh tượng đáng kinh ngạc!”
Một số khoa học gia tuyên bố rằng nếu chúng ta có thể du lịch trong không gian đủ nhanh và đủ xa, chúng ta có thể “bắt kịp” những tia sáng từ quá khứ và nhìn xem lịch sử mở ra trước mắt chúng ta. Có lẽ Chúa sẽ cho phép chúng ta làm điều đó khi chúng ta đến Thiên Đàng. Tôi hy vọng như vậy, vì tôi muốn thấy những sự kiện lạ thường được Môi-se mô tả trong Sáng Thế Ký 1:1-2:25.
Sáng Thế Ký 2:1-25 giới thiệu với chúng ta một chuỗi những “việc đầu tiên” quan trọng đối với chúng ta nếu chúng ta muốn xây dựng đời sống mình theo những nền tảng Đức Chúa Trời đã đặt trong vũ trụ của Ngài.
1. Ngày Sa-bát đầu tiên (Sáng Thế Ký 2:1-3)
Từ “Sa-bát” không được tìm thấy trong phân đoạn này, nhưng Môi-se đang viết về ngày Sa-bát ngày thứ 7 của tuần lễ. Nhóm từ “ngày thứ 7” được đề cập 3 lần trong các câu 2-3. “Sa-bát” đến từ một từ Hê-bơ-rơ “Sabbat” nghĩa là “ngưng làm việc, nghỉ ngơi” và có liên hệ với từ Hê-bơ-rơ nói về số “bảy” [25]Chúng ta cần phải xem xét 3 ngày Sa-bát khác nhau được tìm thấy trong Kinh Thánh.
Ngày Sa-bát riêng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 2:1-4). Ngày Sa-bát đầu tiên này đã xảy ra không phải vì Đức Chúa Trời mệt mỏi bởi công việc sáng tạo của Ngài, vì Đức Chúa Trời không mệt mỏi (Ê-sai 40:28). Đức Chúa Trời biệt riêng ngày thứ 7 vì công việc sáng tạo của Ngài đã hoàn tất và Ngài đã làm thật rất tốt lành” (Sáng Thế Ký 1:31).
Có 3 điều đặc trưng về ngày thứ bảy này của tuần lễ sáng tạo. Thứ nhất, không có sự đề cập nào về “buổi chiều và buổi mai” gợi ý rằng sự nghỉ ngơi ngày Sa-bát của Đức Chúa Trời sẽ không có kết thúc. Tiếc thay, tội lỗi loài người đã làm gián đoạn sự nghỉ ngơi của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời phải tìm kiếm A-đam với Ê-va và đối phó với họ (Sáng Thế Ký 3:8-9 Giăng 5:9, 17). Thứ hai, không có ghi chép nào cho thấy Ngài ban phước bất kỳ ngày nào trong sáu ngày kia, nhưng Ngài thật đã ban phước cho ngày thứ 7 (Sáng Thế Ký 2:3). Khi ban phước cho ngày đó, Ngài biến nó thành một phước hạnh. Thứ ba, khi ban phước cho ngày thứ bảy, Đức Chúa Trời thánh hóa ngày ấy (c.3) nghĩa là Ngài biệt riêng ngày ấy vì những mục đích đặc biệt của Ngài. [26]
Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của thời gian cũng như Chúa của sự vĩnh hằng. Chính Ngài là Đấng đã tạo nên thời gian và thiết lập sự xoay vòng của các hành tinh cùng quỹ đạo của chúng quanh mặt trời. Chính Ngài là Đấng đã đánh dấu tuần lễ 7 ngày và biệt riêng một ngày cho chính Ngài. Mọi vật sống Ngài đã dựng nên đều sống từng ngày một ngoại trừ con người được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời! Con người đổ xô quanh “cuộc ganh đua quyết liệt” điên cuồng của đời sống, luôn luôn lập kế hoạch để nghỉ ngơi nhưng dường như không bao giờ thực hiện được kế hoạch của mình.
Người ta nói rằng hầu hết con người trong thế giới chúng ta đều đang “bị đóng đinh trên thập tự giữa 2 tên cướp”: những hối hận của hôm qua và những lo lắng về ngày mai. Đó là lý do vì sao họ không thể vui hưởng hôm nay. Nhờ cậy vào những phương tiện vận chuyển và thông tin hiện đại, chúng ta tìm cách sống 2 hoặc 3 ngày cùng một lúc, chỉ để liều lĩnh va vào chu kỳ sự sáng tạo của vũ trụ, và kết quả đầy đau đớn và thường tai hại. Đức Chúa Trời đã làm nhiều việc kỳ diệu suốt 6 ngày của sự sáng tạo, nhưng đỉnh điểm của tuần lễ sáng tạo là “sự nghỉ ngơi” của Đức Chúa Trời sau công việc của Ngài. Như chúng ta sẽ thấy, Đức Chúa Trời đã thánh hoá công việc cũng như sự nghỉ ngơi, nhưng chính sự nghỉ ngơi dường như là nhu cầu lớn nhất trong lòng người ngày nay. Augustine đã đúng khi ông viết: “Ngài đã tạo nên chúng tôi vì chính Ngài và lòng chúng tôi không yên nghỉ cho đến khi chúng tôi yên nghỉ trong Ngài”.
Ngày Sa-bát quốc gia của Y-sơ-ra-ên. Không có đề cập nào về ngày Sa-bát trong Kinh Thánh cho đến Xuất Ê-díp-tô 16:23 khi Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-ên những quy tắc về việc thâu lượm ma-na hằng ngày. Từ cách điều răn này được phán ra, nó gợi ý rằng dân Do Thái đã biết tầm quan trọng của ngày Sa-bát và tuân giữ nó như một ngày nghỉ ngơi. Khi ban ngày Sa-bát cho Y-sơ-ra-ên, Chúa liên hệ ngày đặc biệt này với những sự kiện khác trong thánh sử.
Trước hết, khi Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-ên luật pháp tại núi Si-na-i, ngày Sa-bát được liên hệ với sự sáng tạo (Xuất Ê-díp-tô 20:8-11). Đức Chúa Trời là Đấng ban cho rời rộng mọi điều họ cần, và họ phải nhận biết Ngài bằng cách thờ phượng Đấng sáng tạo chớ không phải sự sáng tạo. Họ không nên bắt chước những dân tộc ngoại đạo quanh họ (Rô-ma 1:18). Môi-se thậm chí đề cập đến sự nghỉ ngơi hằng tuần mà các tôi tớ và gia súc cần có (Xuất Ê-díp-tô 23:12), vì vậy giữ ngày Sa-bát là một hành động nhân đạo cũng như một nhiệm vụ tôn giáo. Chúa đã ra lệnh cho dân Ngài kỷ niệm mỗi năm thứ 7 làm một năm Sa-bát và mỗi năm thứ 50 làm một năm Hân Hỉ. Điều này sẽ cho phép đất hưởng những ngày Sa-bát và được cải tạo (Lê-vi Ký 25:1-55).
Ngày Sa-bát không chỉ có liên hệ với sự sáng tạo, mà ở cuối phần ban Luật pháp, nó được ban cho ý nghĩa đặc biệt như một dấu hiệu giữa Y-sơ-ra-ên và Đức Giê-hô-va (Xuất Ê-díp-tô 31:12-17 Nê-hê-mi 9:13-15). “Các ngươi chắc chắn hãy giữ ngày Sa-bát, vì là một dấu giữa ta và các ngươi, trải qua mọi đời, để các ngươi có thể biết rằng ta là Đức Giê-hô-va, làm cho các ngươi nên thánh” (Xuất Ê-díp-tô 31:13 NKJV). Không có chứng cớ nào cho thấy Đức Chúa Trời đòi hỏi bất cứ dân tộc nào khác giữ ngày Sa-bát, vì chỉ dân Do Thái là tuyển dân của Đức Chúa Trời.
Có một sự liên hệ thứ 3 giữa ngày Sa-bát với dân Do Thái. Khi Môi-se nhắc lại Luật pháp cho thế hệ mới về việc đi vào Ca-na-an, ông liên hệ ngày Sa-bát với sự giải cứu họ khỏi Ai Cập (Phục truyền 5:12-15). Ngày Sa-bát hằng tuần và lễ Vượt qua hằng năm đều sẽ nhắc nhở Y-sơ-ra-ên về sự thương xót và quyền năng Đức Chúa Trời trong việc giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ. Hơn nữa, ngày nghỉ ngơi hằng tuần này cũng sẽ là một sự nếm trước về sự nghỉ ngơi mà họ sẽ hưởng trong Đất Hứa (Phục truyền 4:37-38). Trong sách Hê-bơ-rơ, ý niệm này về một “sự nghỉ ngơi được hứa ban” được ứng dụng cho các tín hữu hôm nay.
Dân tộc Y-sơ-ra-ên cuối cùng đã suy sụp về thuộc linh và không tuân giữ Luật pháp của Đức Chúa Trời, kể cả luật ngày Sa-bát, và họ cuối cùng bị trừng phạt vì sự bất tuân của họ (2Sử Ký 36:14-21 Ê-xê-chiên 20:1 Ê-sai 58:13-14 Giê-rê-mi 17:19-27). Vương quốc phía Bắc của Y-sơ-ra-ên đã bị A-sy-ri nuốt mất, và Vương quốc phía Nam của Giu-đa đã bị Ba-by-lôn lưu đày.
Vào thời điểm chức vụ của Chúa Giê-xu, các thầy thông giáo cùng người Pha-ri-si thêm vào Lời của Đức Chúa Trời những lời truyền khẩu của họ và biến Luật pháp nói chung với ngày Sa-bát nói riêng thành cái ách tôn giáo. Một số điều cấm kỵ được tìm thấy trong luật Môi-se (Xuất Ê-díp-tô 16:29 Xuất Ê-díp-tô 35:2-3 Dân Số Ký 15:32-36) đã được triển khai thành vô số quy tắc. Tuy nhiên, Chúa Giê-xu đã bác bỏ những truyền khẩu của họ và thậm chí thực hiện những phép lạ vào ngày Sa-bát! Ngài phán: “Vì loài người mà lập ngày Sa-bát, chớ chẳng phải vì ngày Sa-bát mà dựng nên loài người” (Mác 2:27).
Ngày Sa-bát thuộc linh của tín hữu Cơ Đốc. Hê-bơ-rơ 4:1-11 kết hợp sự nghỉ ngơi ở sự sáng tạo của Đức Chúa Trời (c.4) với sự nghỉ ngơi ở Ca-na-an của Y-sơ-ra-ên (c.8) để dạy chúng ta về sự nghỉ ngơi thuộc linh mà tín hữu có trong Đấng Christ (c.9-11).Khi bạn tin Chúa Giê-xu Christ, bạn bước vào “sự sáng tạo mới” (2Cô-rinh-tô 5:17) và vào sự yên nghỉ của Ngài về thuộc linh (Ma-thi-ơ 11:28-30). Bạn cũng bước vào di sản thuộc linh Ngài ban cho tất cả những ai tin nơi Ngài (Công vụ 20:32 Ê-phê-sô 1:18 Cô-lô-se 1:12). Tín hữu không ở dưới ách nô lệ để giữ Luật pháp (Ga-la-ti 5:1), vì Thánh Linh đã làm trọn trong chúng ta sự công bình của Luật pháp khi chúng ta đầu phục Ngài (Rô-ma 8:1-3).
Những tín hữu Cơ Đốc đầu tiên đã nhóm lại hằng ngày để thờ phượng và thông công (Công vụ 2:46), nhưng họ cũng nhóm nhau vào ngày đầu tiên, ngày Đấng Christ sống lại từ cõi chết (Giăng 20:19, 26 Công vụ 20:7 1Cô-rinh-tô 16:2). Ngày đầu tiên được biết là “ngày của Chúa” (Khải Huyền 1:10) và biến ngày của Chúa thành một “ngày Sa-bát Cơ Đốc” là làm lẫn lộn điều mà 2 ngày này đại diện trong kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Ngày thứ 7 trong tuần, ngày Sa-bát của Do Thái, tượng trưng cho sự sáng tạo cũ và giao ước của luật pháp: trước hết bạn làm việc, sau đó bạn nghỉ ngơi. Ngài đầu tuần, ngày của Chúa, tượng trưng cho sự sáng tạo mới và giao ước của Ân điển:trước hết bạn tin nơi Đấng Christ và tìm thấy sự yên nghỉ, sau đó họ làm việc (Ê-phê-sô 2:8-10). Trong sự sáng tạo mới, Thánh Linh Đức Chúa Trời giúp chúng ta có thể khiến cả tuần lễ trở thành một kinh nghiệm về sự thờ phượng, ngợi khen và hầu việc vì vinh hiển Đức Chúa Trời.
Luật Sa-bát Do Thái đã được Đấng Christ làm trọn trên thập tự giá và không còn trói buộc trên dân sự Đức Chúa Trời (Ga-la-ti 4:1-11 Cô-lô-se 2:16-17). Tuy nhiên, một số tín hữu có thể quyết định tôn trọng ngày Sa-bát “như đối với Chúa và Cơ Đốc nhân không nên xét đoán hay lên án nhau trong vấn đề này. Khi những người tốt lành và tin kính bất đồng về những vấn đề lương tâm, họ phải thực hành tình yêu cùng sự chấp nhận lẫn nhau và cho nhau sự tự do (Rô-ma 14:1-15:7). “Vì vậy, chớ có ai xét đoán anh em về của ăn uống (những luật ăn kiêng) hoặc ngày lễ, hoặc ngày mặt trăng mới (những kỳ lễ của Do Thái) hoặc ngày Sa-bát” (Cô-lô-se 2:16 NKJV).
2. Gia đình đầu tiên (Sáng Thế Ký 2:4-14)
Một số học giả Cựu Ước đã tuyên bố rằng phần Sáng Thế ký đoạn 2 này là một câu chuyện thứ hai về sự sáng tạo được viết bởi một tác giả khác có sứ điệp mâu thuẫn với điều được tìm thấy trong chương 1. Lý thuyết đó không được đề xướng rộng rãi ngày nay, vì trong những câu này, Môi-se kể câu chuyện sáng tạo tương tự nhưng thêm vào những chi tiết chúng ta cần biết để hiểu những sự kiện xảy ra sau đó. Sáng Thế Ký 2:4 là nhận định đầu tiên trong 11 nhận định về “sự phát sinh” đánh dấu tiến trình câu chuyện Môi-se viết trong sách Sáng Thế ký (xem chương 1, phân đoạn 2).
A-đam người làm việc. Nhìn lại ngày thứ 3 (Sáng Thế Ký 1:9-13), Môi-se cho biết thể nào Đức Chúa Trời đã đem lại thực vật và cung cấp “sương mù” để tưới thực vật. Bạn sẽ không bắt gặp mưa trong Sáng Thế ký cho đến thời Nước Lụt. Thật thú vị rằng Đức Chúa Trời cần ai đó để cày cấy đất và giúp sản sinh thức ăn cần thiết. Loài người là những quản gia về những phước hạnh của sự sáng tạo của Đức Chúa Trời và phải sử dụng những sự ban cho của Ngài như Ngài đã truyền bảo. Đức Chúa Trời và con người đồng công nhau, vì Đức Chúa Trời đã đặt A-đam trong vườn để làm công việc của Ngài trong việc cày cấy và chăm sóc đất (c.15).
Một người về hưu sống trong một thành phố mệt mỏi khi nhìn thấy một lô đất xấu bỏ hoang khi ông tản bộ mỗi ngày, vì vậy ông xin phép chủ đất để trồng vườn ở đó, phải mất nhiều ngày để kéo đi rác rưởi chất đống và thậm chí mất nhiều thời gian hơn để chuẩn bị cho đất, nhưng người đàn ông làm việc chăm chỉ. Năm sau, lô đất rạng rỡ sự sống và đẹp đẽ, mọi người đều chú ý.
Một vị khách đã nói khi ông trầm trồ nhìn ngắm các bông hoa và phong cảnh: “Đức Chúa Trời chắc chắn đã ban cho ông một phần bất động sản đẹp đẽ”.
Người làm vườn bận rộn đáp lại: “Vâng, đúng vậy, nhưng lẽ ra bạn phải thấy bất động sản này khi chỉ một mình Đức Chúa Trời sở hữu nó”.
Lời đáp này là một lời đáp khôn ngoan và không hề thiếu tôn kính. Chính Đức Chúa Trời Đấng chỉ định mục đích - một khu vườn xinh đẹp - cũng chỉ định phương tiện cho mục đích ai đó để làm công việc. Xét cho cùng “đức tin không có việc làm thì chết” (Gia-cơ 2:26) và không có số lượng cầu nguyện hay bài học Kinh Thánh nào có thể chiếm chỗ của một người làm vườn cày đất, gieo giống, tưới cây và nhổ cỏ.“Chúng tôi là bạn cùng làm việc với Đức Chúa Trời” (1Cô-rinh-tô 3:9).
Công việc không phải là một sự rủa sả, Nó là một cơ hội để sử dụng những khả năng cùng cơ hội của chúng ta trong việc hợp tác với Đức Chúa Trời và làm những quản gia trung tín về sự sáng tạo của Ngài. Sau khi con người phạm tội, công việc đã trở nên sự khó nhọc (Sáng Thế Ký 3:17-19), nhưng đó không phải là ý định ban đầu của Đức Chúa Trời. Chúng ta đều có những khả năng và cơ hội khác nhau, và chúng ta phải khám phá điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm với đời sống chúng ta trên thế gian này, vì ích lợi của người khác và vinh hiển của Đức Chúa Trời. Một ngày nào đó, chúng ta muốn mình có thể đứng trước mặt Đức Chúa Trời và đồng thanh với Chúa Giê-xu: “Con đã tôn vinh Cha trên đất. Con đã làm xong công việc Cha giao cho Con làm” (Giăng 17:4 NKJV).
A-đam người tá điền. Đức Chúa Trời lập vườn của Ngài “ở hướng Đông tại Ê-đen” (Sáng Thế Ký 2:8). “Ê-đen” nghĩa là “sự sung sướng” hoặc “nơi có nhiều nước” và gợi ý rằng khu vườn này là một lạc viên từ tay Đức Chúa Trời. Lịch sử Kinh Thánh bắt đầu bằng một khu vườn xinh đẹp nơi con người đã phạm tội, nhưng câu chuyện kết thúc với một “thành vườn” (Khải Huyền 21:1-22:21) nơi không có tội lỗi nào. Điều gì đã đem đến sự thay đổi? Một khu vưòn thứ 3, Ghết-sê-ma-nê, nơi Chúa Giê-xu đã đầu phục ý muốn Cha và đi đến chỗ chịu chết trên thập tự giá vì tội lỗi của thế gian.
Chúng ta không có thông tin nào về sông Bi-sôn hay sông Ghi-hôn; Mặc dù sông Hi-đê-ke (Tigris) và sông Ơ-phơ-rát quen thuộc đối với chúng ta, chúng ta vẫn không có đủ dữ kiện để xác định vị trí chính xác của vườn Ê-đen. Vị trí của vùng đất Ha-vi-la cũng không chắc chắn, một số người đặt nó ở Ac-mê-ni-a, những người khác đặt nó ở Mê-sô-bô-ta-mi. Bản dịch King James nhận diện vùng đất Cu-sơ là Ê-thi-ô-pi, nhưng sự giải thích này nói chung không được chấp nhận ngày nay. May thay, không cần thiết để nắm vững địa lý ngày xưa để hiểu những bài học thuộc linh của những chương đầu này trong Sáng Thế ký.
Trong khu vườn xinh đẹp này, Đức Chúa Trời đã cung cấp sự dư dật và sự xinh đẹp. A-đam và Ê-va có thực phẩm để ăn và vui hưởng các công trình do tay Chúa làm nên. Nhưng nếu tội lỗi không bước vào khu vườn, thì hạnh phúc của họ đã không bị phá hỏng.
3. Giao ước đầu tiên (Sáng Thế Ký 2:16-17)
Một giao ước là một sự thỏa thuận ràng buộc giữa 2 hay nhiều bên để điều khiển mối liên hệ của họ. [27] Từ “ra lệnh” được giới thiệu ở thời điểm này vì chính Đức Chúa Trời là Đấng lập những điều khoản của hiệp ước. Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo và loài người là tạo vật, một “tá điền hoàng gia” trong thế giới kỳ diệu của Đức Chúa Trời, vì vậy Đức Chúa Trời có quyền bảo con người điều con người có thể và không thể làm.Đức Chúa Trời không yêu cầu lời khuyên của A-đam, Ngài chỉ ban cho ông điều răn của Ngài.
Đức Chúa Trời đã ban vinh dự lớn và và đặc quyền cho A-đam trong việc khiến ông trở thành quan nhiếp chính của Ngài trên đất (Sáng Thế Ký 1:28), nhưng trách nhiệm luôn đến cùng với đặc quyền. Chính Lời Đức Chúa Trời đã hình thành vũ trụ cũng bày tỏ tình yêu với ý muốn của Đức Chúa Trời cho A-đam với Ê-va và con cháu họ (Thi Thiên 33:11). Sự vâng theo Lời này sẽ giữ họ trong phạm vi mối giao thông và sự chấp nhận của Đức Chúa Trời. Mọi mệnh lệnh của Đức Chúa Trời đều là những mệnh lệnh tốt lành và đem lại những điều tốt lành cho những ai vâng theo (Thi Thiên 119:39 Châm Ngôn 6:20-23). “Điều răn của Ngài chẳng phải là nặng nề” (1Giăng 5:3).
Đức Chúa Trời đã đặt 2 cây đặc biệt giữa vườn: Cây sự sống với cây biết điều thiện và điều ác (Sáng Thế Ký 2:9, 17 Sáng Thế Ký 3:3, 22, 24).Ăn trái cây sự sống sẽ được sự sống đời đời (c.22). Ăn trái cây thứ 2 sẽ được sự hiểu biết đầy kinh nghiệm về điều thiện và điều ác, nhưng nó sẽ đem lại sự chết (Sáng Thế Ký 2:17) [28] Vì chưa bao giờ kinh nghiệm điều ác, A-đam và Ê-va giống như những đứa trẻ ngây thơ (Phục truyền 1:39 Ê-sai 7:15-16). Khi họ bất tuân Đức Chúa Trời, họ trở nên giống Ngài trong việc có thể phân biệt giữa điều thiện và điều ác, nhưng họ trở nên không giống Ngài khi họ đánh mất sự vô tội của mình và cuối cùng phải chết.
Nhưng tại sao Đức Chúa Trời phải thử nghiệm A-đam và Ê-va? Có thể có nhiều câu trả lời cho câu hỏi đó, nhưng một điều chắc chắn là: Đức Chúa Trời muốn con người yêu mến và vâng phục Ngài cách tự do và tự nguyện chớ không phải vì họ được lập chương trình như những rô-bốt phải vâng lời. Theo một ý nghĩa nào đó, Đức Chúa Trời “liều lĩnh” khi Ngài dựng nên A-đam cùng Ê-va theo hình ảnh của Ngài và ban cho họ đặc quyền lựa chọn, nhưng đây là cách Ngài định cho họ để học biết về sự tự do và sự vâng lời. Một trong những lẽ thật cơ bản của đời sống đó là sự vâng lời đem đến phước hạnh và sự bất tuân đem đến sự phán xét.
4. Hôn nhân đầu tiên (Sáng Thế Ký 2:19-25)
Vào cuối ngày thứ 6 của sự sáng tạo, Đức Chúa Trời xem xét mọi vật Ngài đã dựng nên và tuyên bố điều đó “rất tốt lành” (Sáng Thế Ký 1:31). Nhưng giờ đây Đức Chúa Trời phán rằng có điều gì đó trong thế giới kỳ diệu của Ngài không tốt lành: loài người ở một mình. Thật ra trong bản văn Hê-bơ-rơ, nhóm từ “không tốt” ở đầu lời nhận định của Chúa trong Sáng Thế Ký 2:18.
Điều gì “không tốt” về tình trạng cô đơn của con người? Xét cho cùng, A-đam có thể giao thông với Đức Chúa Trời, hưởng vẻ đẹp của khu vườn và ăn trái của nó, thực hiện công việc hằng ngày của mình và thậm chí chơi đùa với các loài vật. Ông có thể muốn gì hơn? Đức Chúa Trời biết điều A-đam cần: “Một kẻ giúp đỡ thích hợp cho nó” (c.18 NIV). Không có người giúp đỡ nào như thế giữa vòng loài vật, vì vậy Đức Chúa Trời dựng nên người nữ đầu tiên và giới thiệu nàng với người nam với tư cách vợ của ông, người bạn, người giúp đỡ. Nàng là món quà tình yêu đặc biệt của Đức Chúa Trời cho A-đam (Sáng Thế Ký 3:12).
Giá trị của người nữ (Sáng Thế Ký 2:18-22).Người nữ chẳng hề là một “tạo vật kém hơn” chút nào. Chính Đức Chúa Trời Đấng dựng nên A-đam cũng đã dựng nên Ê-va và tạo ra nàng theo hình ảnh của Ngài (Sáng Thế Ký 1:27).Cả A-đam và Ê-va đều thực hiện quyền cai quản sự sáng tạo (c.29). A-đam được dựng nên từ bụi đất nhưng Ê-va được dựng nên từ sườn của A-đam, xương bởi xương ông và thịt bởi thịt ông (Sáng Thế Ký 2:23).
Vấn đề đơn giản là A-đam cần Ê-va. Không một loài vật đơn độc nào Đức Chúa Trời đã dựng nên có thể làm được cho A-đam điều mà Ê-va có thể làm. Nàng là người giúp đỡ “thích hợp cho ông”. Khi Đức Chúa Trời đem các loài vật đến trước mặt A-đam để ông đặt tên cho chúng, chúng chắc chắn đến trước mặt ông theo cặp, mỗi con với bạn của nó và có lẽ A-đam đã tự hỏi: “Vì sao tôi không có một người bạn?”
Dù Ê-va được dựng nên để làm một “người giúp đỡ thích hợp” cho A-đam, nàng được dựng nên không phải để làm một nô lệ. Nhà giải nghĩa Kinh Thánh nổi tiếng Mathew Henry đã viết: “Nàng đã được dựng nên không phải từ cái đầu của ông để cai trị ông, cũng không phải từ cái chân của ông để bị ông chà đạp, nhưng từ cái sườn của ông để bình đẳng với ông, dưới cánh tay của ông để được bảo vệ, và gần trái tim của ông để được yêu mến”. Phao-lô viết rằng “đàn bà là sự vinh hiển của đàn ông” (1Cô-rinh-tô 11:7). Vì nếu đàn ông là đầu (1Cô-rinh-tô 11:1-16 Ê-phê-sô 5:22-33), thì đàn bà là mão triều làm vinh dự cái đầu.
Sự thánh hóa hôn nhân (Sáng Thế Ký 2:23-24) [29] Kiểu mẫu của Đức Chúa Trời cho hôn nhân không do A-đam nghĩ ra, như hôn lễ truyền thống xác định. “Hôn nhân được sinh ra trong trái tim yêu thương của Đức Chuýa Trời vì phước hạnh và lợi ích của nhân loại”. Cho dù các tòa án có thể ra sắc lệnh gì, hay xã hội có thể cho phép điều gì, khi nói đến hôn nhân, Đức Chúa Trời đã có lời đầu tiên và Ngài sẽ có lời cuối cùng (Hê-bơ-rơ 13:4 Khải Huyền 22:15). Có lẽ Chúa nhìn thấy nhiều cuộc hôn nhân ngày nay trái với tinh thần Kinh Thánh và phán: “Từ lúc ban đầu không phải như vậy” (Ma-thi-ơ 19:8) kế hoạch ban đầu của Ngài là một người nam và một người nữ sẽ là một thịt suốt một đời.
Đức Chúa Trời đã nghĩ đến ít nhất 4 mục đích khi Ngài thực hiện hôn nhân đầu tiên trong vườn Ê-đen. Thứ nhất, Ngài muốn tình bạn thích hợp cho A-đam vì vậy Ngài ban cho ông một người vợ. Ngài ban cho A-đam một con người chớ không phải một con vật, một người bình đẳng với ông và qua đó có thể hiểu ông và giúp đỡ ông. Martin Luther đã gọi hôn nhân là “một trường dành cho tính cách” và đúng vậy. Khi hai ngưới chung sống trong hôn nhân thánh khiết, kinh nghiệm đem đến điều tốt nhất trong họ hoặc đều tồi tệ nhất trong họ. Đó là một cơ hội để thực hành đức tin, hy vọng cùng tình yêu và để trưởng thành trong sự hy sinh và sự phục vụ cho nhau vì vinh hiển Đức Chúa Trời.
Thứ hai, hôn nhân cung cấp quyền lợi Đức Chúa Trời ban cho để vui hưởng tình dục và có con cái. Chúa đã ra lệnh cho họ “Hãy sanh sản, thêm nhiều và làm cho đầy dẫy đất” (Sáng Thế Ký 1:28). Điều này không ngụ ý rằng tình yêu tính dục chỉ dành cho sự sinh sản vì nhiều người kết hôn vượt quá thời gian sinh con, nhưng việc sinh con cái là một phần quan trọng của sự hiệp nhất hôn nhân (1Ti-mô-thê 5:14). [30]
Mục đích thứ ba cho hôn nhân là để khích lệ sự tự chủ (1Cô-rinh-tô 7:1-17). “Thà cưới gả còn hơn là đốt cháy sự đam mê” (c.9, NKJV). Một cuộc hôn nhân chỉ được xây dựng trên sự đam mê tình dục có lẽ không bền chắc hoặc trưởng thành. Tình yêu tính dục phải phong phú chớ không chỉ say mê, và các đối tác hôn nhân cần phải tôn trọng nhau chớ không chỉ lợi dụng nhau. Suốt Kinh Thánh, sự kết hợp tình dục ngoài hôn nhân bị lên án và được cho thấy là mang tính phá hoại, và những sự hiểu sai về sự kết hợp tình dục cũng vậy (Rô-ma 1:24-27). Cho dù các quan toà hay những người tư vấn về hôn nhân nói gì đi nữa, “Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt kẻ dâm dục cùng kẻ phạm tội ngoại tình” (Hê-bơ-rơ 13:4).
Cuối cùng, hôn nhân là một sự minh họa về mối liên hệ đầy yêu thương và mật thiết giữa Đấng Christ với Hội Thánh của Ngài (Ê-phê-sô 5:22-23). Phao-lô gọi điều này là một “sự mầu nhiệm lớn”, đó là một lẽ thật thuộc linh sâu sắc đã từng được ẩn giấu nhưng giờ đây được Thánh Linh bày tỏ. Chúa Giê-xu Christ là A-đam sau cùng (1Cô-rinh-tô 15:45) và vì vậy là một dạng của A-đam thứ nhất.
A-đam được làm cho ngủ mê và sườn của ông được mở ra để ông có một người vợ, nhưng Chúa Giê-xu Christ đã chết trên thập tự giá và huyết Ngài đổ ra để Ngài có thể có một vợ mới, là Hội Thánh (Giăng 19:33-37). Đấng Christ yêu Hội Thánh, chăm sóc Hội Thánh, tìm cách làm Hội Thánh tinh sạch và khiến Hội Thánh đẹp đẽ hơn và làm vinh hiển Ngài. Một ngày nào đó Đấng Christ sẽ xác nhận vợ mới của Ngài và giới thiệu nàng trong sự tinh sạch và vinh hiển trên trời (Giu-đe 1:24 Khải Huyền 19:1-9).
Khi A-đam nhìn thấy vợ mới của ông, ông bật lên lời ngợi khen vui mừng (Sáng Thế Ký 2:23)như thể ông nói: “Cuối cùng tôi có một người bạn thích hợp!” (Kinh Thánh NIV biệt riêng lời này như một bài thơ). Đặc tính của nàng là “người nữ” sẽ “nhắc nhở” mọi người rằng nàng được đem ra từ “người nam” và thuật ngữ “người nam” sẽ luôn là một phần của “người nữ” [31] Nàng được dựng nên từ chàng và vì chàng và chàng cần nàng. Vì vậy, họ sẽ luôn thuộc về nhau và phục vụ nhau cách yêu thương.
A-đam không nói những lời được chép trong các c.24-25. Đó là sự phản ánh của Đức Chúa Trời trên sự kiện này và lời phán của Ngài về nguyên tắc của sự hiệp nhất hôn nhân do A-đam tuyên bố. Người nữ là một với người nam cả trong nguồn gốc (này đến từ người nam) và trong hôn nhân. Trong sự kết hợp tình dục và qua con cái họ người nam và người nữ là “một thịt”. Hôn nhân là một mối liên hệ dân sự, được Luật pháp quy định, và phải là một mối liên hệ thuộc linh và là một mối liên hệ tấm lòng, được điều khiển bởi Lời Đức Chúa Trời và được thúc đẩy bởi tình yêu. Nhưng hôn nhân về cơ bản là một mối liên hệ về thể xác. Người nam và người nữ không phải chủ yếu là “một linh hồn”, hay “một trái tim”, dù những điều đó là cần thiết, nhưng là “một thịt”. Do đó, tầm quan trọng của việc “lìa” gia đình ban đầu và “dính díu” với người bạn đời của mình (Ê-phê-sô 5:30-31), việc tạo nên một mối liên hệ mới phải được nuôi dưỡng và bảo vệ.
Nhóm từ “một thịt” ngụ ý rằng bất cứ điều gì phá vỡ sự ràng buộc về xác thịt trong hôn nhân cũng có thể phá vỡ chính hôn nhân. Một điều như vậy là sự chết; và khi một người bạn đời chết, người bạn đời kia được tự do tái hôn vì sự ràng buộc hôn nhân đã bị phá vỡ (Rô-ma 7:1-3 1Cô-rinh-tô 7:8-9 1Ti-mô-thê 5:14). Trong Ma-thi-ơ 19:1-9 Chúa Giê-xu dạy rằng tội ngoại tình có thể phá vỡ mối dây hôn nhân. Dưới Luật pháp Cựu Ước, bất cứ ai phạm tội ngoại tình đều bị ném đá đến chết (Phục truyền 22:22-24 Giăng 8:3-7), và vì vậy để người bạn đời vô tội được tái hôn, nhưng luật này không được ban ra trong Hội Thánh thời Tân Ước. Có vẻ như sự ly hôn trong thời Tân Ước tương đương với sự chết trong Cựu Ước và bên vô tội được tự do tái hôn. Tuy nhiên, những tội lỗi nghịch với mối dây hôn nhân có thể được tha thứ và vợ chồng có thể thực hiện sự tha thứ và tạo một khởi đầu mới trong Chúa.
Chúng ta sống trong một thế giới do Đức Chúa Trời sáng tạo, chúng ta là những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời, và chúng ta vui hưởng những phước hạnh dư dật từ bàn tay Đức Chúa Trời. Bi thảm thay khi có quá nhiều người đặt Đức Chúa Trời ra khỏi đời sống họ và trở nên những kẻ lang thang bối rối trong một thế giới cừu địch, khi mà họ có thể làm con cái của Đức Chúa Trời trong thế giới của Cha họ.
Đây là thế giới của Cha tôi- Phải không?. Tôi thú nhận trước sự hổ thẹn rằng suốt những năm đầu tiên của chức vụ mình, tôi đã tránh cho hội chúng hát “Đây là thế giới của Cha tôi” trong những lễ thờ phượng của chúng tôi. Không kể một dòng, bài hát nhấn mạnh Đức Chúa Trời của thiên nhiên chớ không phải Đức Chúa Trời của thập tự giá và tôi muốn mọi điều trong những lễ thờ phượng của chúng tôi mang tính “Phúc Âm”. Hơn nữa, ngôn ngữ của bài hát quá đa cảm đối với tôi, và tôi không biết người sáng tác là loại người nào. Thậm chí không tìm hiểu, tôi kết luận bất cứ ai có một cái tên giống như Maltbie D. Babcock phải là người sống ẩn dật mắc bệnh lao đã giết chết hằng giờ đồng hồ dài mỗi ngày để nhìn ra cửa sổ và viết nhạc ủy mị.
Hãy tưởng tượng tôi ngạc nhiên và bối rối thế nào khi khám phá rằng Maltbie D. Babcock (1858-1901) là một mục sư hội Trưởng Lão đầy hùng dũng từng là một vận động viên ném bóng xuất sắc trong đội bóng chày và là một nhà vô địch bơi lội. Hầu hết các buổi sáng, ông đi bộ 8 đến 10 dặm! Ông cho mọi người biết ông đang đi ra “để xem thế giới của Cha tôi”.
Dĩ nhiên, tôi đã trưởng thành một chút kể từ những ngày nông nổi ấy, và tôi đã ăn năn về sự dại dột của mình. Ngày nào đó tôi muốn gặp Mục sư Babcock trên Thiên Đàng và xin lỗi ông. Tôi nhận ra rằng Đa-vít đã đúng khi ca ngợi Đấng sáng tạo trong những Thi Thiên của ông và các tạo vật được tô điểm trên trời đang làm việc đúng khi chúng tôi thờ Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo (Khải Huyền 4:1-11) và Đấng Cứu Chuộc Khải Huyền 5:1-14, vì hai ngôi vị đi đôi với nhau. Sự sáng tạo và sự cứu chuộc thuộc về một kế hoạch vĩ đại, vì sự cứu chuộc do Chúa Giê-xu thực hiện trên thập tự giá sẽ đem lại sự tự do cho mọi loài. Một ngày nào đó sự sáng tạo của Đức Chúa Trời sẽ vui mừng bước vào “sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời” (Rô-ma 8:21) Ha-lê-lu-gia!
Nhưng không phải mọi người đều đồng ý với Đa-vít và Phao-lô cùng những tạo vật thờ phượng trên trời rằng đây thật sự là “thế giới của Cha chúng ta”. Trong “những thành kiến: đợt ba” của mình, chủ bút nhật báo kiêm nhà văn tiểu luận người Mỹ H. L. Mencken đã viết: “Vũ trụ là một bánh xe khổng lồ thực hiện 10. 000 vòng tua một phút. Con người là một con ruồi bệnh hoạn đi trên đó một cách hoa mắt. Tôn giáo là một học thuyết mà bánh lái được thiết kế và được làm quay vòng để cho con người dạo chơi”. Nhà văn tiểu luận người Anh Walter Savage Landor đã nói:“Xem như một tổng thể thì vũ trụ là vô lý”, và nhà vật lý người Mỹ Steven Weiberg đã viết: “Vũ trụ càng có vẻ hiểu được thì nó cũng càng có vẻ vô nghĩa”.
Nào, bạn hãy chọn lựa! Nhưng hãy cẩn thận, vì sự chọn lựa bạn thực hiện sẽ quyết định loại đời sống bạn sẽ sống trên đất này và số phận đời đời của bạn khi bạn lìa đời. Kẻ vô thần nói rằng vũ trụ chỉ là một sự tình cờ có trật tự. Những người theo tiểu thuyết bất khả tri thừa nhận rằng họ chỉ không biết và không quá lo lắng. Những kẻ theo thuyết hữu thần thú nhận rằng Đức Chúa Trời từ ban đầu đã sáng tạo mọi vật nhưng từ lâu đã từ bỏ những gì Ngài dựng nên. Nhưng tín hữu Cơ Đốc vẫn ca ngợi: “Đây là thế giới của Cha tôi”.
Có gì khác biệt khi Cơ Đốc nhân tin nơi một Đấng sáng tạo là Đấng không chỉ dựng nên vũ trụ mà còn chỉ huy nó và điều khiển vận mệnh của nó? Nếu trong Hội Thánh chúng ta hát “Đây là thế giới của Cha tôi”, vậy chúng ta phải sống thế nào ở nơi phố chợ và làng xóm để chứng tỏ rằng chúng ta thật sự muốn nói điều đó?
Chúng ta sẽ thờ phượng một mình Đức Chúa Trời. “Cả trái đất khá kính sợ Đức Giê-hô-va, mọi dân thế gian hãy tôn kính Ngài. Vì Ngài phán, thì việc liền có, Ngài ra lệnh, thì vật bèn đứng vững bền” (Thi Thiên 33:8-9 NIV).
Sự sáng tạo bày tỏ sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, quyền năng của Đức Chúa Trời và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Vấn đề vũ trụ phức tạp này nếu xuất hiện do sự tình cờ từ chỗ không có gì bởi một “vụ nổ lớn” thì có khả năng xảy ra giống như những tác phẩm của Shakespeare ra đời từ một vụ nổ trong nhà máy in. Chỉ một Đức Chúa Trời quyền năng mới có thể sáng tạo cái gì đó từ chỗ không có gì, và chỉ một Đức Chúa Trời khôn ngoan mới có thể khiến nó thực hiện chức năng như vậy. Khoa học gia chỉ đang suy nghĩ những tư tưởng của Đức Chúa Trời sau Ngài và khám phá những định luật Đức Chúa Trời đã đặt trong thế giới của Ngài ở sự sáng tạo.
Phao-lô khẳng định rằng sự sáng tạo chứng tỏ “quyền phép đời đời và bổn tánh của Đức Chúa Trời (Rô-ma 1:20) và Đa-vít ca ngợi: “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giãi tỏ công việc tay Ngài làm” (Thi Thiên 19:1). Chúa Giê-xu đã không ngần ngại sử dụng từ “sự sáng thế” (Mác 10:6 Mác 13:19), Phao-lô (Rô-ma 8:1-20, 22) và Phi-e-rơ (2Phi-e-rơ 3:4) cũng vậy.
Rô-ma 1:18-32 giải thích sự thoái hóa của loài người từ sự nhận biết Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật đến sự thờ phượng các tà thần và những hình tượng chết…”Trái với điều mà một số học giả tôn giáo so sánh dạy dỗ, loài người đã không khởi đầu hành trình tôn giáo của mình bằng cách thờ phượng các vật trong thiên nhiên và sau đó dần dần lên đến chỗ thờ phượng một Đức Chúa Trời. Thật ra, loài người đã bắt đầu tại đỉnh cao, biết Đức Chúa Trời chân thật, nhưng để thỏa mãn những khao khát đam mê của mình, họ đã từ chối thờ phượng Ngài và quay sang các hình tượng. Augustine đã viết: “Vì vậy thế gian thật sự quên Ngài, Đấng sáng tạo nó và yêu những gì Ngài đã tạo nên thay vì yêu Ngài”.
Khi Đa-vít ngắm xem sự vĩ đại của các từng trời, ông phải hỏi: “Loài người là gì mà Chúa nhớ đến? Con loài người là chi, mà Chúa thăm viếng nó?” (Thi Thiên 8:4) “Tiên tri Ê-sai đã suy gẫm sự vĩ đại của Đấng sáng tạo và thấy rõ ràng sự dại dột của việc thờ hình tượng (Ê-sai 40:12-26 Ê-sai 45:5-18).
“Hỡi Chúa, những sự kỳ diệu của Ngài được tỏ ra dường bao,
Bất cứ nơi đâu tôi hướng mắt mình đến:
Nếu tôi xem xét đất mình bước lên
Hoặc nhìn chăm chăm lên bầu trời!”
(Isaac Watts)
Một hướng dẫn viên du lịch tại một phòng thí nghiệm nguyên tử, cho nhóm của anh ta cơ hội đặt những câu hỏi, và một du khách đã hỏi: “Anh nói rằng cả thế giới có vẻ rất rắn chắc này chỉ là những hạt mang điện đang chuyển động. Nếu điều đó đúng, cái gì giữ nó lại với nhau?”. Câu trả lời thành thật của hướng dẫn viên là: “chúng tôi không biết”. Nhưng Phao-lô đã trả lời câu hỏi đó từ bao thế kỷ trước: “Muôn vật đã được dựng nên bởi Ngài (Chúa Giê-xu Christ) và vì Ngài, Ngài có trước muôn vật và muôn vật đứng vững trong Ngài” (Cô-lô-se 1:16-17 NIV). Đây là Đức Chúa Trời chúng ta thờ phượng, và sự sáng tạo dự phần với chúng ta trong việc ca ngợi Ngài (Thi Thiên 19:1-5 Thi Thiên 96:10-13 Thi Thiên 148:1-13).
Chúng ta sẽ là những quản gia tốt về sự sáng tạo của Ngài.Khi Đức Chúa Trời ban cho người nam và người nữ đầu tiên quyền cai quản sự sáng tạo (Sáng Thế Ký 1:26-30), Ngài đặt họ và con cháu họ dưới nhiệm vụ quí trọng những sự ban cho của Ngài và sử dụng chúng cẩn thận vì vinh hiển Ngài. Đức Chúa Trời đã dựng nên mọi vật vì vinh hiển và ý muốn của Ngài (Khải Huyền 4:11) cũng như vì sự vui mừng và ích lợi của chúng ta (1Ti-mô-thê 6:17 Công vụ 17:24-28); và chúng ta phải luôn nhìn thấy mình là những quản gia trong thế giới của Đức Chúa Trời.Hủy hoại sự sáng tạo và lãng phí những sự dư dật của nó là phạm tội nghịch với Đức Chúa Trời.
Trong vũ trụ này, chúng ta có Đức Chúa Trời, con người và những vật Đức Chúa Trời đã dựng nên, trong đó là nước, đất, loài vật và sự sống thực vật, không khí và những tài nguyên bao la dưới lòng đất. Chúng ta được ra lệnh phải thờ phượng Đức Chúa Trời, yêu mến người khác, và sử dụng mọi sự vì vinh hiển Đức Chúa Trời vì ích lợi của người khác. Khi trật tự thiêng liêng này trở nên bị lẫn lộn, thì sự sáng tạo của Đức Chúa Trời bị tổn thương. Khi chúng ta trong tính tham lam của mình bắt đầu ham muốn mọi sự thì chúng ta sẽ nhanh chóng bắt đầu lơ là Đức Chúa Trời, ngược đãi con người và hủy hoại sự sáng tạo. Nhà tiểu thuyết Alan Paton đã viết: “Đất là thánh, hiện diện như nó đã đến từ Đấng sáng tạo. Hãy giữ nó, bảo vệ nó, chăm sóc nó, vì nó giữ con người, bảo vệ con người, chăm sóc con người, huỷ hoại nó thì con người bị hủy hoại”.
Đức Chúa Trời đã viết trong luật của Môi-se sự quan tâm của Ngài đối với con người, loài vật, thực vật và đất với những người nguồn tài nguyên của nó. Ngày Sa-bát ban sự yên nghỉ cho người làm việc cùng súc vật của họ (Xuất Ê-díp-tô 20:8-11 Xuất Ê-díp-tô 23:12) và năm Sa-bát với năm Hân hỉ cho đất được nghỉ ngơi (Lê-vi Ký 25:1-55). Vì dân Do Thái đã không vâng theo những luật này, họ bị lưu đày để đất có thể hưởng những ngày Sa-bát của nó và được cải tạo (2Sử Ký 36:14-21).
Đức Chúa Trời đã ban cho Y-sơ-ra-ên những quy tắc về súc vật bị lạc và bị té (Phục truyền 22:1-4) chim làm tổ (Phục truyền 22:6-7) súc vật cày cấy (Phục truyền 22:10) và súc vật mới sinh (Lê-vi Ký 22:26-28). Người viết Thi Thiên đã ca ngợi Đức Chúa Trời về sự quan tâm và chăm sóc thường trực của Ngài đối loài vật và loài người (Thi Thiên 102:10-30). Không có gì có thể phủ nhận được sự kiện Đức Chúa Trời đã không bỏ rơi sự sáng tạo của Ngài, nhưng loài người chắc chắc đã báng bổ và hủy hoại sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Vì sao? Vì con người nghĩ họ làm chủ sự sáng tạo. Họ quên rằng họ là những tá điền của Đức Chúa Trời và là những quản gia về những sự ban cho của Ngài.
Các nhà chuyên môn về sinh thái học tuyên bố rằng mỗi ngày có 100 loài thực vật và động vật trở nên bị tuyệt chủng, và sự tàn phá rừng cùng sự ô nhiểm nước với không khí đang ngày càng sinh ra nhiều bi kịch về sinh thái học khi thời gian tiếp diễn. “Đức Giê-hô-va là tốt lành cho tất cả, Ngài giáng sự thương xót trên mọi vật Ngài làm nên… Đức Giê-hô-va là thành tín với mọi điều Ngài hứa và đầy lòng yêu thương đối với mọi vật Ngài dựng nên…. Đức Giê-hô-va là công bình trong mọi đường Ngài và đầy yêu thương đối với mọi vật Ngài dựng nên” (Thi Thiên 145:9, 13, 17 NIV). Chúng ta lại dám bóc lột và hủy hoại sự sáng tạo mà Đức Chúa Trời yêu mến sao?
Chúng ta sẽ tin cậy nơi sự lo liệu của Đức Chúa Trời và không lo lắng. Những người theo thuyết bất khả tri và thuyết vô thần có mọi quyền để lo lắng vì (như ai đó đã nói) “họ không có phương tiện giúp đỡ vô hình”. Đối với họ, vũ trụ là một bộ máy tự tạo vô ngã, không phải là sự sáng tạo của một Đức Chúa Trời khôn ngoan và là Cha yêu thương. Nhưng tín hữu Cơ Đốc xem sự sáng tạo là thế giới của Cha họ. Họ gọi Đấng sáng tạo là “Cha” và họ phó thác cho Ngài đời sống của họ, hoàn cảnh của họ và tương lai của họ.
Mọi vật trong thiên nhiên ngợi khen Chúa và trông đợi Ngài để được bất cứ điều gì chúng cần. “Hết thảy loài vật này trông đợi Chúa, hầu cho Chúa có thể ban đồ ăn cho chúng nó đúng mùa” (Thi Thiên 104:27 NKJV). Không có chứng cớ nào cho thấy loài chim cổ đỏ bị ung loét hay loài thỏ bị suy sụp thần kinh.
Chim cổ đỏ nói với chim sẻ.
“Tôi thật sự muốn biết,
Vì sao những con người lo âu đó
Vội vã tới lui và lo lắng như vậy”
Chim sẻ nói với chim cổ đỏ,
“Tôi thật nghĩ rằng chắc là
Họ không có Cha trên trời
Đấng chăm sóc bạn và tôi”
Vũ trụ không phải là một bộ máy vĩ đại mà Đức Chúa Trời đã tạo dựng, lên dây cót, và rồi bỏ rơi. “Đất là của Đức Giê-hô-va, và mọi vật trong đó, thế gian và mọi kẻ sống trong đó” (Thi Thiên 24:1 NIV). “Điều gì Đức Giê-hô-va đẹp ý, Ngài bèn làm, trên trời và dưới đất, trong biển và trong mọi nơi sâu” (Thi Thiên 135:6 NKJV). “Trong tay Ngài là sự sống của mọi sinh vật và hơi thở của cả loài người” (Gióp 12:10).
Từ “sự quan phòng” đến từ những từ La-tinh có ý nghĩa “thấy trước”. Cho dù bất cứ điều gì phải được thực hiện, Chúa sẽ lưu ý đến (Sáng Thế Ký 22:13-14). Hành tinh trái đất không phải đang lảo đảo quanh không gian như một kẻ say rượu không tự lo liệu. Đức Chúa Trời có cả thế giới trong tay Ngài và đang thực hiện những mục đích thiêng liêng của Ngài vì ích lợi của dân sự Ngài và vinh hiển của danh Ngài. Chính sự bảo đảm đó cho dân Ngài sự bình an cho dù những hoàn cảnh có thể khó khăn ra sao. “Đức Giê-hô-va vạn quân ở cùng chúng tôi, Đức Chúa Trời Gia-cốp là nơi nương náu của chúng tôi… Hãy yên lặng, và biết rằng ta là Đức Chúa Trời” (Thi Thiên 46:7, 10).
Trong Bài giảng Trên Núi (Ma-thi-ơ 5:1-7:29), Chúa Giê-xu cho chúng ta biết cách chữa trị sự lo lắng. Chúng ta phải đặt đời sống mình trong tay của Cha và tin cậy Ngài hướng dẫn chúng ta và chu cấp cho chúng ta từng ngày từng giờ (Ma-thi-ơ 6:24-34). Nếu chúng ta đặt vật chất trước trên trong đời sống mình, thì chúng ta sẽ lo lắng và phiền muộn, nhưng nếu chúng ta đặt Vương Quốc Đức Chua Trời trước hết, Ngài sẽ đáp ứng những nhu cầu của chúng ta và ban cho chúng ta sự bình an (c.33). Ngài đang thực hiện mọi sự vì ích lợi ngay bây giờ (Rô-ma 8:28), dù chúng ta có thể không thấy hoặc không hiểu mọi điều Ngài đang làm cho chúng ta.
Chúng ta sẽ cầu nguyện với Cha chúng ta. Nếu Đức Chúa Trời Đấng Sáng Tạo và Chúa của vũ trụ là Cha chúng ta, thì việc chúng ta phải nói với Ngài về những điều khiến chúng ta quan tâm là điều hợp lý. “Nếu các ngươi là xấu, còn biết cho con cái mình những vật tốt thay, thì Cha các ngươi ở trên trời sẽ ban các vật tốt cho những người xin Ngài nhiều hơn biết bao” (Ma-thi-ơ 7:11 NKJV).
Nhưng nếu Đức Chúa Trời là tối cao, và có một kế hoạch cho dân sự Ngài với thế giới của Ngài, thì tại sao lại cầu nguyện ?Cầu nguyện không phải là can thiệp vào ý muốn của Đức Chúa Trời sao? Không, không phải vậy. Sự cầu nguyện là một trong những phương tiện Đức Chúa Trời đã chỉ định để thực hiện ý muốn của Ngài trên thế giới này. Người ta thường nói rằng mục đích của sự cầu nguyện không phải để làm cho ý muốn của chúng ta được thực hiện trên trời nhưng là để ý muốn của Đức Chúa Trời sẽ được thực hiện trên đất. “Ý Cha được nên, ở đất như trời” (Ma-thi-ơ 6:10). Nếu chúng ta không cầu xin chúng ta không thể nhận lãnh lãnh (Lu-ca 11:9-10 Gia-cơ 4:1-3). Và Chúa Giê-xu khích lệ chúng ta cầu xin bằng gương mẫu, sự dạy bảo và những lời hứa của Ngài.
Chúng ta cầu nguyện với Cha vì chúng ta biết Ngài là Đấng Sáng Tạo và “Chúa của trời và đất”. Những người cầu thay cao trọng trong Kinh Thánh đều có thể nói, “Sự tiếp trợ tôi đến từ Đức Giê-hô-va, là Đấng đã dựng nên trời và đất” (Thi Thiên 121:2).Điều này đúng đối với Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 14:22), Ê-xê-chia (2Các vua 19:15), các Sứ đồ và Hội Thánh đầu tiên (Công vụ 4:24), Phao-lô (Ê-phê-sô 3:15) và cả Chúa Giê-xu Christ của chúng ta (Lu-ca 10:21). Khi bạn tập trung vào sự vĩ đại của Đức Chúa Trời, những vấn đề và gánh nặng của bạn sẽ trở nên nhỏ hơn và nhẹ hơn.
Chúng ta sẽ không chịu khổ vì cớ Ngài. “Vậy, những kẻ chịu khổ theo ý muốn Đức Chúa Trời hãy phó mình cho Đấng Tạo Hóa thành tín và hãy cứ làm lành” (1Phi-e-rơ 4:19 NIV). Từ Hy Lạp được dịch là “phó thác” là một thuật ngữ ngân hàng có nghĩa “ký thác để giữ an toàn” và ngụ ý 2 điều: Thứ nhất, dân sự Chúa quý giá đối với Ngài, và thứ hai, Ngài đáng được nhờ cậy để chăm sóc chúng ta. “Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài chăm sóc anh em” (1Phi-e-rơ 5:7 NKJV). Xét cho cùng, nếu Đấng Sáng Tạo có thể cầm giữ vũ trụ của Ngài và giữ cho nó hoạt động để hoàn thành ý muốn Ngài, thì Ngài không thể làm như vậy cho đời sống chúng ta, gia đình chúng ta và chức vụ chúng ta hay sao? Đấng Sáng Tạo là Đấng biết số lượng và tên mọi vì sao, biết chúng ta là ai và có thể đáp ứng những nhu cầu sâu xa nhất của chúng ta (Thi Thiên 147:3-6).
Phi-e-rơ đã viết thư gởi cho các tín hữu trong đế chế La Mã là những người sắp bước vào “lò lửa hừng” (1Phi-e-rơ 1:7 1Phi-e-rơ 4:12) và bị bắt bớ vì đức tin họ. Nhưng khi dân sự Ngài ở trong lò lửa, Đấng Sáng Tạo để mắt Ngài trên đồng hồ và tay Ngài trên máy điều nhiệt. Ngài biết bao lâu và mức độ nào, và Ngài luôn điều khiển.
Khi con đi qua chặng đường đầy lửa thử thách,
Ân điển có đủ của ta sẽ là sự cung cấp cho con.
Ngọn lửa sẽ không làm hại con, Ta chỉ có ý định.
Làm cho cặn bã của con cháy đi và vàng của con được tinh ròng.
(John F. Wade).
Chúng ta sẽ yêu mến và phục vụ nhân loại.Khi Phao-lô nói với các triết gia Hy Lạp trên Đồi Mars, ông trình bày cho họ một bài giảng ngắn về thần học và nhân loại học (Công vụ 17:22-34). Ông bảo họ rằng Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo và không cần những đền thờ cùng hình tượng do loài người làm ra vì Ngài là Chúa của trời đất. Chúng ta không thể cho Đức Chúa Trời bất cứ cái gì vì Ngài đã dựng nên mọi vật, và chính Ngài là Đấng ban cho chúng ta “sự sống, hơi sống và muôn vật” (c.25)
Sau đó Phao-lô mạo hiểm vào địa phận nguy hiểm và tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên muôn dân từ “một huyết” (c.26), một nhận định chắc đã làm bối rối những người Hy Lạp kiêu ngạo. Vào thời đó, họ xem mình là một dân thượng lưu và mọi người khác là “người dã man”. Nhưng Phao-lô biết rằng mọi dân đều có nguồn gốc từ A-đam và mọi chủng tộc cùng mọi quốc gia đều là một gia đình trước mặt Đấng Sáng Tạo. Trong sự quan phòng của Ngài, Đức Chúa Trời đã cho phép các dân tộc dấy lên rồi hạ xuống và thậm chí đi đến những địa phận mới, nhưng họ đều là những tạo vật của Ngài, được dựng nên từ bụi đất và được tồn tại bởi quyền năng của Ngài.
Trong luật Cựu Ước, Đức Chúa Trời ra lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên bày tỏ sự tử tế đối với khách lạ và người ngoại quốc ở giữa họ (Xuất Ê-díp-tô 23:9 Lê-vi Ký 19:34 Lê-vi Ký 23:22 Phục truyền 10:17-19 Phục truyền 26:1-11).Chúa Giê-xu đã bày tỏ sự thương xót đối với dân ngoại cũng như với dân Do Thái và Ngài sử dụng một người Sa-ma-ri làm ví dụ về một người láng giềng tốt (Lu-ca 10:25-37). Một số người Do Thái trong Hội Thánh đầu tiên đã có vấn đề về việc chấp nhận dân ngoại, nhưng Đức Chúa Trời cho biết rõ rằng không có chỗ cho định kiến giữa vòng dân sự Ngài (Công vụ 10:1-11:24 Công vụ 15:1-29 Ga-la-ti 3:26-29).
Bao lâu còn có những nhu cầu cần đáp ứng chúng ta phải là những người lân cận của nhau và giúp đỡ nhau. Trung tín trong những nhiệm vụ tôn giáo thì chưa đủ, chúng ta cũng phải có lòng thương xót đối với những kẻ túng thiếu (Ê-sai 58:6-11 1Giăng 3:16-24 Gia-cơ 2:14-17). Thậm chí nếu có những người không phải là tín đồ Đấng Christ, họ là những con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời, và chúng ta phải làm điều chúng ta có thể làm cho họ.
Một ngày tháng 12 nọ, vợ tôi đang lái xe đi thăm gia đình bà ở Wisconsin, và xe hơi chúng tôi trượt khỏi con đường rồi rơi vào mương nước. Chúng tôi không bị thương và xe hơi không bị hư hại, nhưng chúng tôi không biết làm thế nào có thể đưa chiếc xe hơi trở lại trên đường. Một vài phút sau đó, ba người đàn ông lái xe qua nhìn thấy tình trạng của chúng tôi, họ dừng xe và đi ra giúp chúng tôi. Họ không hỏi quốc tịch hay nhận thức tôn giáo của chúng tôi: Họ chỉ làm việc và kéo chiếc xe hơi của chúng tôi ra khỏi mương nước. Chúng tôi hết sức cảm ơn họ và họ tiếp tục lên đường. Điều mà Robert Burns nhà thơ người Ê-cốt gọi là “sự vô nhân đạo của con người đối với con người” chắc chắn đã không xảy ra ngày ấy!
Học giả Do Thái Abraham Joshua Heschel gọi định kiến chủng tộc là “cực độ của sự căm thù đối với cực tiểu của lý do”. Nhưng nếu chúng ta đều được dựng nên “từ một huyết”, làm sao chúng ta có thể coi thường và ngược đãi nhau, vì khi làm vậy, chúng ta cũng xúc phạm chính mình.
Chúng ta sẽ đọc và học Lời Đức Chúa Trời. “Bàn tay Chúa đã làm và nắn hình tôi, xin hãy ban cho tôi trí hiểu, để tôi có thể học các điều răn của Chúa” (Thi Thiên 119:73 NKJV). Bàn tay đã dệt nên chúng ta trong lòng mẹ chúng ta (Thi Thiên 139:13-16) cũng đã viết lời hướng dẫn chúng ta trong đời sống hằng ngày của chúng ta.[32]
Khi bạn mua một chiếc xe hơi mới hay một dụng cụ mới, bạn đọc sách chỉ dẫn để biết chắc mình hiểu cách nó vận hành. Kinh Thánh là “sách chỉ dẫn” cho đời sống. Nó cho chúng ta biết chúng ta từ đâu đến, chúng ta là gì và Đức Chúa Trời mong chúng ta làm điều gì. Đức Chúa Trời Đấng đã dựng nên chúng ta biết rõ nhất chúng ta phải sống thế nào, và nếu chúng ta bỏ qua lời khuyên cùng sự cảnh cáo của Ngài, chúng ta đang hướng đến sự rắc rối. Quản lý đời sống mà không vâng lời Ngài thì giống như lái một máy bay mà trước hết không đọc sách hướng dẫn chuyến bay: chúng ta sẽ hướng đến một tai nạn rơi máy bay!
Chúa có một mục đích thiên thượng cho mỗi chúng ta thực hiện, và chúng ta khám phá mục đích đó bằng cách đọc Lời Ngài và vâng theo. “Đức Giê-hô-va sẽ làm xong việc có liên quan đến tôi: Hỡi Đức Giê-hô-va, sự nhơn từ Ngài còn đến đời đời:Xin chớ bỏ công việc của tay Ngài” (Thi Thiên 138:8 NKJV). Chúa muốn hướng dẫn mỗi chúng ta và giúp chúng ta có thể vui hưởng điều Ngài đã hoạch định cho chúng ta, nhưng chúng ta phải sẵn sàng hợp tác. Bỏ qua Kinh Thánh là hủy bỏ “kim chỉ nam cho đời sống” tuyệt vời nhất đã được ban cho nhân loại.
“Hãy hết lòng tin cậy Đức Chúa Giê-hô-va, chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con, phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài, thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con” (Châm Ngôn 3:5-6). Chắc chắn chúng ta phải sử dụng tâm trí của mình và suy xét mọi điều, nhưng chúng ta không nên dựa vào lý luận của riêng mình xa rời Lời Đức Chúa Trời. Ý thức thông thường cho Đa-vít trẻ tuổi biết rằng Gô-li-át khổng lồ lớn hơn và mạnh hơn ông, nhưng đức tin nói rằng Đức Chúa Trời sẽ đánh bại tên khổng lồ (1Sa-mu-ên 17:1-58). Lý lẽ con người cho ba người Hê-bơ-rơ biết rằng lò lửa hừng sẽ thiêu đốt họ, nhưng đức tin nói rằng Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ và gìn giữ họ (Đa-ni-ên 3:1-30). “Như vậy, đức tin đến bởi sự nghe, và sự nghe đến bởi Lời Đức Chúa Trời” (Rô-ma 10:17 NKJV).
Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo, và Ngài đã ban cho các tạo vật của Ngài một quyển sách giúp họ hiểu Ngài là ai, Ngài hành động thế nào và Ngài muốn họ làm gì. Đó là một quyển sách về những lời dạy dỗ để vâng theo, những lời hứa để tin theo và những nguyên tắc để thông hiểu. Đó cũng là một quyển sách nói về những con người thật, một số họ đã vâng lời Chúa và một số họ không vâng lời. Và từ những kinh nghiệm của những người này, chúng ta có thể học nhiều điều về những gì phải tránh trên đường đời.
Bằng mọi cách chúng ta phải học mọi điều chúng ta có thể, nhưng mọi điều chúng ta học phải được kiểm nghiệm bởi Lời Đức Chúa Trời. Robert A. Millikan, nhà vật lý người Mỹ và là người đoạt giải Nobel đã nói: “Tôi xem một sự hiểu biết sâu sắc về Kinh Thánh như một khả năng cần thiết của một người có giáo dục tốt”. Willian Lyon Phelps giáo sư Đại học Yale đồng ý khi ông nói: “Bất cứ ai có một hiểu biết xuyên suốt về Kinh Thánh thật sự có thể được gọi là có học thức… Tôi tin sự hiểu biết về Kinh Thánh mà không có một khoá đại học thì đáng giá hơn một khoá đại học mà không có Kinh Thánh”.
Nếu bạn tin rằng Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo, và tin rằng bạn đang sống trong vũ trụ của Ngài, vậy hãy lắng nghe điều Ngài cần phán và vâng theo; vì đó là bí quyết của sự sung mãn và thành công thật (Giô-suê 1:7-9).
4. NHỮNG NGUY HIỂM TRONG VƯỜN ĐỊA ĐÀNG (Sáng Thế Ký 3:1-24)
Nếu Sáng Thế Ký 3:1-24 không có trong Kinh Thánh, sẽ không có Kinh Thánh như chúng ta biết. Tại sao? Vì phần còn lại của Kinh Thánh dẫn chứng những hậu quả đáng buồn của tội lỗi A-đam và giải thích điều Đức Chúa Trời đã làm để cứu chúng ta trong ân điển của Ngài. Bằng cách nắm những chân lý cơ bản của chương quan trọng này, bạn có thể hiểu rõ hơn sự bàn luận của Phao-lô về sự xưng công nghĩa trong Rô-ma 5:1-21 sự dạy dỗ của ông trong 1Ti-mô-thê 2:8-15 về đàn ông cùng đàn bà trong Hội Thánh, và sự giải thích của ông trong 1Cô-rinh-tô 15:1-58 về sự sống lại trong tương lai.
Sự bất tuân của A-đam đã đem tội lỗi vào dòng dõi loài người, nhưng Kinh Thánh không cho chúng ta giải thích nào về sự tồn tại của Sa-tan và điều ác trước khi có sự sa ngã của con người. Sự ghi chép trong Sáng Thế Ký 3:1-24 không phải là một chuyện thần thoại. Nếu sự sa ngã của loài người thật sự đã không xảy ra, vậy đức tin Cơ Đốc nhân được xây dựng trên những điều bịa đặt, không phải sự thật, và Chúa Giê-xu Christ đã chịu thương khó trên thập tự giá một cách vô ích. Từ Sáng Thế Ký 3:1-24 đến Khải Huyền 21:1-27 Kinh Thánh ghi lại sự xung đột giữa Đức Chúa Trời và Sa-tan, tội lỗi và sự công bình, và kêu gọi tội nhân ăn năn để tin nhận Đức Chúa Trời.
1. Kẻ thù (Sáng Thế Ký 3:1a)
[33]. Sa-tan đã bị vẽ biếm họa quá nhiều bởi các nhà văn, nghệ sĩ, diễn viên và các nhà hài hước đến nỗi đa số người không tin ma quỉ thật sự hiện hữu; vì nếu họ tin nó hiện hữu, họ không xem nó quan trọng. Ví dụ như nhà tiểu thuyết người Anh Samuel Butler đã viết: “Cần phải nhớ rằng chúng ta chỉ nghe một phía của sự việc. Đức Chúa Trời đã viết mọi quyển sách” [34]Và Mark Twain đã viết: “Chúng ta không thể kính trọng Sa-tan, vì điều đó sẽ trơ tráo, nhưng chúng ta ít nhất có thể tôn trọng những tài năng của nó” [35]Một diễn viên hài nổi tiếng trên truyền hình luôn bật cười khi ông nói: “Ma quỉ đã khiến tôi làm điều đó!”
Dù chúng ta không hiểu nhiều về nguồn gốc của nó. [36] chúng ta biết rằng Sa-tan có thật, Sa-tan là một kẻ thù, và Sa-tan nguy hiểm. Ở đây trong Sáng Thế Ký 3:1-24 Sa-tan được ví sánh với con rắn, một hình ảnh được lập lại trong 2Cô-rinh-tô 11:3. Trong Khải Huyền 12:1-18 nó được gọi là con rồng, và cả hai tên gọi đều được kết hợp trong Khải Huyền 20:2. Nhưng Sa-tan không chỉ là một con rắn lừa dối, nó cũng là một sự tử rống cắn nuốt (1Phi-e-rơ 5:8). Trong số các tên gọi của nó là “A-ba-đôn” và “A-pô-ly-ôn” nghĩa là “kẻ hủy diệt” (Khải Huyền 9:11). “Sa-tan”nghĩa là “kẻ địch thủ” và “ma quỉ” nghĩa là “kẻ vu cáo”.
Trong Giăng 8:44 Chúa Giê-xu gọi Sa-tan là kẻ giết người và “cha sự nói dối”. Ngài cũng gọi nó là “quỉ dữ” (Ma-thi-ơ 13:19) và “vua chúa của thế gian này” (Giăng 12:31). Phao-lô và Giăng cũng gọi ma quỉ là “kẻ ác” (2Tê-sa-lô-ni-ca 3:3 1Giăng 3:12) và Phao-lô đã nói Sa-tan là “chúa đời này” (2Cô-rinh-tô 4:4) kẻ cai trị hệ thống thế gian (Ê-phê-sô 2:2) và kẻ đứng đầu thế lực của điều ác (Ê-phê-sô 6:10-12).
Tóm lại, Sa-tan không phải là đối thủ dễ chống đỡ, và dân sự Đức Chúa Trời phản cẩn thận đừng cho nó chỗ đứng trong đời sống mình (Ê-phê-sô 4:27). Đó là lý do chúng ta sẽ học Lời Đức Chúa Trời và tìm cách hiểu chiến lược của Sa-tan (2Cô-rinh-tô 2:11).
2. Chiến lược (Sáng Thế Ký 3:1-5)
Sự cám dỗ là một cơ hội để thực hiện một việc tốt bằng một phương cách xấu. Vượt qua một cuộc thi là một điều tốt nhưng thực hiện nó bằng cách gian lận là một điều xấu. Thanh toán hoá đơn là một điều tốt nhưng ăn cắp tiền để thanh toán là một điều xấu. Thực chất, Sa-tan nói với Ê-va: “Ta có thể cho ngươi điều gì đó ngươi cần và muốn. Ngươi có thể có nó bây giờ và vui hưởng nó, và tốt nhất, sẽ không có những hậu quả đau đớn nào. Quả là một cơ hội!” Hãy chú ý những giai đoạn Sa-tan cám dỗ Ê-va. [37]
Sa-tan giả dạng (Sáng Thế Ký 3:1a). Sa-tan không phải là một kẻ khởi đầu, nó là một kẻ bắt chước khôn khéo ngụy trang cho tính cách thật của nó. Nếu cần, nó có thể giả trang như một thiên sứ sáng láng (2Cô-rinh-tô 11:14) [38] Khi nó vào trong khu vườn, Sa-tan sử dụng thân xác một con rắn, một trong những sinh vật của Đức Chúa Trời được Ngài tuyên bố là “tốt lành” (Sáng Thế Ký 1:31). Ê-va dường như không bị quấy rầy bởi sự hiện diện của con rắn hay lời nói của nó, vì vậy chúng ta cho rằng bà không thấy gì đáng đe dọa về cuộc chạm trán. Có lẽ Ê-va đã không được giới thiệu với loài này và kết luận rằng nó có khả năng nói. [39]
Ngày nay Sa-tan vẫn hành động như kẻ mạo nhận lớn. Nó đã tạo ra một sự công bình giả khác với sự công bình chỉ đến bởi đức tin nơi Chúa Cứu Thế (Rô-ma 9:30-10:13). Sa-tan có những kẻ hầu việc giả (2Cô-rinh-tô 11:13-16)rao một tin lành giả (Ga-la-ti 1:6-10) và có những anh chị em giả chống lại Tin Lành thật (2Cô-rinh-tô 11:26). Ma quỉ đã tập họp những Cơ Đốc nhân giả trong những Hội Thánh giả mà Đức Chúa Trời gọi là “hội quỉ Sa-tan” (Khải Huyền 2:9), và trong những buổi hội họp này, “những bí mật sâu hiểm” của Sa-tan được dạy dỗ (c.24).
Sa-tan chất vấn lời Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 3:1b). 2Cô-rinh-tô 11:3 cho thấy rõ mục tiêu của Sa-tan là tâm trí Ê-va và vũ khí của nó là sự lừa dối. Bằng cách chất vấn điều Đức Chúa Trời đã phán, Sa-tan làm dậy lên những nghi ngờ trong tâm trí Ê-va về sự thành tín của Lời Đức Chúa Trời và sự nhân từ của tấm lòng Đức Chúa Trời. “Có phải ngươi thật sự muốn nói rằng ngươi không thể ăn mọi cây?” là nội dung của câu hỏi khôn khéo. “Nếu Đức Chúa Trời thật sự yêu ngươi, Ngài sẽ rộng rãi hơn nữa. Ngài đang từ chối ngươi!” Sa-tan muốn Ê-va quên điều Đức Chúa Trời đã bảo A-đam (là người bảo với Ê-va) rằng họ có thể tự do ăn các cây trong vườn. Vì ích lợi của họ, có một điều cấm: họ không nên ăn trái cấm ở giữa vườn (Sáng Thế Ký 2:15-17).
Lời đáp của Ê-va cho thấy bà đang theo gương Sa-tan và thay đổi chính Lời Đức Chúa Trời. Hãy so sánh Sáng Thế Ký 3:2-3 với Sáng Thế Ký 2:16-17 và bạn sẽ thấy rằng bà đã bỏ đi từ “tự do”, thêm vào nhóm từ “cũng chẳng nên đá động đến” (NKJV) và không nói rằng Đức Chúa Trời “ra lệnh” cho họ vâng lời. Cũng hãy để ý rằng Ê-va đã bắt chước ma quỉ nhiều hơn khi bà nói về “Đức Chúa Trời” (Ê-lô-im) chớ không phải “Giê-hô-va Đức Chúa Trời”, là Đức Chúa Trời của giao ước. Cuối cùng, bà nói “e các ngươi chết” một khả năng có thể xảy ra – thay vì “các ngươi chắc sẽ chết” – một sự thật. Vì vậy, bà đã lấy từ Lời Đức Chúa Trời thêm vào Lời Đức Chúa Trời, và thay đổi Lời Đức Chúa Trời, thật sự là những vi phạm nghiêm trọng (Phục truyền 4:2 Phục truyền 12:32 Châm Ngôn 30:6 Khải Huyền 22:19). Bà đang bắt đầu nghi ngờ sự nhơn từ và thành tín của Đức Chúa Trời.
Sa-tan phủ nhận Lời Đức Chúa Trời (c.4). “Các ngươi chắc chắn sẽ không chết đâu” (NIV) là một mâu thuẫn trực tiếp với Lời Đức Chúa Trời”, các ngươi chắc sẽ chết” (Sáng Thế Ký 2:17 NIV). Nhưng Sa-tan là một kẻ nói dối (Giăng 8:44) và Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của chân lý (Phục truyền 32:4), còn đáp ứng của chúng ta đối với điều Đức Chúa Trời phán phải là “Vì vậy tôi xem các giềng mối Chúa về muôn vật là phải” (Thi Thiên 119:127). Tại thời điểm này, Ê-va lẽ ra phải tự nhắc mình về Lời Đức Chúa Trời, tin theo, lìa con rắn và tìm chồng bà. Chính khi chúng ta nấn ná ở nơi cám dỗ là lúc chúng ta vướng vào rắc rối, đặc biệt khi chúng ta biết điều chúng ta đang suy nghĩ trái ngược với chân lý của Đức Chúa Trời. Chân lý của Đức Chúa Trời là cái khiên và cái can của chúng ta (Thi Thiên 91:4 Ê-phê-sô 6:16), nhưng nó chỉ bảo vệchúng ta khi chúng ta cầm lấy nó bằng đức tin và sử dụng nó.
Sa-tan thay thế sự giả dối của nó (Sáng Thế Ký 3:5). “Các ngươi sẽ giống như Đức Chúa Trời” là một lời hứa gây sự chú ý của bất cứ người nào [40] “Vinh hiển cho loài người ở nơi cao nhất!” luôn là tiếng kêu đồng thanh của những kẻ chối bỏ sự mạc khải của Đức Chúa Trời, dù họ tán thành chủ nghĩa nhân bản vô thần, chủ nghĩa vật chất hay cái gọi là tôn giáo thời đại mới. (Thật ra, triết học của những người theo thời đại mới chẳng mới gì cả. Nó cũ như Sáng Thế Ký 3:1-24!).
Rô-ma 1:18-32 mô tả thể nào nền văn minh của dân ngoại từ thời Ca-in đã chối bỏ lẽ thật của Đức Chúa Trời và quay sang sự dại dột cùng sự dối trá. Họ “đã đổi chân lý Đức Chúa Trời lấy sự dối trá, kính thờ và hầu việc loài tạo vật thế cho Đấng Sáng Tạo” (c.25, NKJV). Nói về sa-tan. Chúa Giê-xu đã phán: “vì nó vốn là kẻ nói dối và là cha sự nói dối” (Giăng 8:44). Trong sự coi thường Đức Chúa Trời, con người đã thay đổi chân lý của Đức Chúa Trời để lấy “sự dối trá” (chú ý số ít)và đi theo Sa-tan là cha của “điều đó” (chú ý số ít lần nữa).
“Sự dối trá” là gì (số ít) mà lại cai trị sự văn minh kể từ lúc loài người sa ngã?Đó là niềm tin rằng người nam và người nữ có thể là chúa của chính mình và sống vì sự sáng tạo chớ không vì Đấng Sáng Tạo và không chịu bất cứ hậu quả nào. Khi tin điều này, họ từ chối đầu phục chân lý của Đức Chúa Trời nhưng thích tin những lời giả dối của Sa-tan là chủ của họ (Ê-phê-sô 2:1-3) và hồ lửa là số phận của họ (Ma-thi-ơ 7:13-23 Khải Huyền 20:10-15).
Khi bạn nhìn lại hậu quả, bạn có thể hiểu rõ hơn cách Sa-tan dẫn con người đến chỗ bất tuân. Một khi chúng ta bắt đầu nghi vấn Lời Đức Chúa Trời, chúng ta được chuẩn bị để chối bỏ Lời Ngài và tin những lời giả dối của Sa-tan. Khi ấy chỉ một bước ngắn nữa là đi đến việc tin những lời hứa của Sa-tan và bất tuân những mệnh lệnh của Đức Chúa Trời. Khi Chúa chúng ta bị cám dỗ (Ma-thi-ơ 4:1-11), Ngài đáp lại những lời giả dối của Sa-tan bằng chân lý của Đức Chúa Trời và ba lần khẳng định “có lời chép!”. Sa-tan muốn lừa dối tâm trí chúng ta (2Cô-rinh-tô 11:3), nhưng chúng ta đánh bại nó bằng cách sử dụng những vũ khí thuộc linh Đức Chúa Trời cung cấp (Ê-phê-sô 6:10-18 2Cô-rinh-tô 10:4-5).
3. Bi kịch (Sáng Thế Ký 3:6-8)
Con người được dựng nên để họ phải tin điều gì đó. Nếu họ không tin chân lý, vậy cuối cùng họ sẽ tin những điều giả dối (2Tê-sa-lô-ni-ca 2:10).Nhưng nếu họ tin những điều giả dối, họ sẽ phải chịu những hậu quả luôn xảy đến khi con người chối bỏ chân lý của Đức Chúa Trời.
Sự bất tuân (Sáng Thế Ký 3:6). Trước hết Ê-va hái trái cây và ăn nó, rồi bà đem một phần trái cây cho chồng và ông đã ăn nó, vì vậy cả hai đã bất tuân Chúa.Ê-va bị lừa dối, nhưng A-đam cố tình phạm tội bằng mắt mở to (1Ti-mô-thê 2:14). Đây là lý do Phao-lô chỉ vào A-đam, không phải Ê-va, như là người đã đem tội lỗi và sự chết vào trong dòng dõi loài người (Rô-ma 5:12-21). “Như trong A-đam mọi người đều chết” (1Cô-rinh-tô 15:22).
Đức Chúa Trời nhìn thấy A-đam trước tiên là đầu của dòng dõi loài người, sự sáng tạo cũ. Khi A-đam phạm tội, chúng ta đã phạm tội trong ông và qua ông chịu những hậu quả của tội lỗi và sự chết. Nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy Chúa Giê-xu Christ là Đầu của Hội Thánh, sự sáng tạo mới (2Cô-rinh-tô 5:17). Và qua hành động công bình của Ngài về việc vâng phục bằng cách chịu chết trên thập tự giá, chúng ta có sự sống và sự công bình. Vâng, tội lỗi và sự chết đang cai trị trong thế gian này, nhưng ân điển và sự công bình cũng đang cai trị bởi Đấng Christ (Rô-ma 5:14, 17, 21). Đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ cất chúng ta khỏi A-đam và ở trong Đấng Christ, chúng ta được tiếp nhận trong sự công bình của Ngài.
Ê-va đã phạm tội vì bà bị quyến rũ đối với trái cây cấm. Bà đang bước đi bởi ngoại cảnh chớ không bởi đức tin nơi Lời Đức Chúa Trời. Sáng Thế Ký 3:6 tương tự với 1Giăng 2:16 “ích lợi vì thức ăn”, “sự mê tham của xác thịt”, “sự khoái lạc của mắt”, “sự mê tham của mắt”, “khao khát được sự khôn ngoan” (NIV), “Sự kiêu ngạo của đời”. Đây là những điều thôi thúc con người của thế gian ngày nay. Và khi dân sự Đức Chúa Trời bắt đầu suy nghĩ giống như thế gian, họ bắt đầu sống giống như thế gian.
Chúng ta biết vì sao Ê-va chịu thua sự cám dỗ, nhưng vì sao A-đam cố tình phạm tội khi ông biết nó trái với ý muốn Đức Chúa Trời? Ông không thấy một sự thay đổi trong Ê-va và nhận ra rằng vợ ông đã không ở trong phạm vi đời sống như bà đã ở trước đây sao? Ông phải thực hiện một sự kiện lựa chọn giữa việc vâng lời Đức Chúa Trời và ở với người vợ mà ông chắc chắn yêu sao?Đây là những câu hỏi mà Kinh Thánh không nêu ra, cũng không trả lời, và thật không khôn ngoan để chúng ta suy đoán. A-đam đã chọn lựa, một chọn lựa sai lầm, và con người đã chịu khổ từ đó.
Sự hiểu biết (Sáng Thế Ký 3:7a). Sa-tan hứa rằng họ sẽ “giống Đức Chúa Trời” và biết điều thiện cùng điều ác, và lời hứa của nó đã ứng nghiệm một cách bi thảm. A-đam và Ê-va đánh mất sự vô tư và lần đầu tiên có một sự nhận biết cá nhân về việc phạm tội nghĩa là gì. Không cần thiết cho hạnh phúc của họ để họ có sự hiểu biết này, và sẽ tốt hơn nếu họ vâng lời và tăng trưởng trong sự hiểu biết về Đức Chúa Trời (Giăng 7:17).
Trong Kinh Thánh, việc phơi bày thân thể lõa lồ một cách không xấu hổ có liên quan đến sự thờ hình tượng (Xuất Ê-díp-tô 32:25), sự say sưa (Sáng Thế Ký 9:20-23 Ha-ba-cúc 2:15) và sự tin theo ma quỉ (Lu-ca 8:26-39 Công vụ 19:16). Đó là một đặc điểm của một xã hội suy đồi trên ngưỡng cửa của sự huỷ diệt khi con người thực hiện một cuộc kinh doanh từ việc phơi trần thân xác loã lồ của con người một cách trắng trợn để làm mục tiêu của sự khoái lạc xác thịt, hoặc qua con người, tranh ảnh, phim. Sách báo khiêu dâm là sự kinh doanh lớn trong xã hội ngày nay.
Sự xấu hổ (Sáng Thế Ký 3:7b). Lần đầu tiên nhận ra sự loã lồ của mình, (Sáng Thế Ký 2:25), họ nhanh chóng làm những vật che thân. Tội lỗi phải khiến chúng ta xấu hổ về chính mình. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta một quan án bên trong gọi là “lương tâm”, tố cáo khi chúng ta làm sai và tán thành khi chúng ta là làm đúng (Rô-ma 2:12-16). Một Cơ Đốc nhân người Mỹ đã ví sánh lương tâm như một mũi tên trong lòng mình. “Nếu tôi làm sai, nó quay lại và làm tôi đau cho đến khi tôi làm đúng. Nhưng nếu tôi cứ làm sai, mũi tên tiếp tục xoay và làm mòn mũi nhọn, vì vậy nó không làm đau nữa”. Kinh Thánh gọi điều đó là một “lương tâm chai lì” (1Ti-mô-thê 4:2) hoặc một “lương tâm xấu” (Hê-bơ-rơ 10:22) không còn thực hiện đúng chức năng.
Khi con người không còn xấu hổ về tội lỗi mình, tính cách của họ đã mất. “Họ xấu hổ khi họ phạm tội gớm ghiếc ư? Không! Họ chẳng xấu hổ chút nào. Họ cũng chẳng biết thẹn đỏ mặt” (Giê-rê-mi 6:15 Giê-rê-mi 8:12 NKJV). “Nhưng ngươi có cái nhìn trơ tráo của gái dâm đãng; ngươi không đỏ mặt vì xấu hổ” (Giê-rê-mi 3:3 NIV). Những tội lỗi từng được vi phạm dưới sự che đậy của sự tối tăm giờ đây được phô trương công khai qua phim ảnh và trên truyền hình, và khi người ta phản đối, họ bị gọi là “người làm ra vẻ đoan trang” hoặc là “bọn Thanh giáo”.
Sự sợ hãi (Sáng Thế Ký 3:8). Tội lỗi sinh ra sự xấu hổ và lỗi lầm, và cả 2 khiến người phạm tội muốn trốn tránh. A-đam và Ê-va cảm thấy xấu hổ vì tình trạng của họ (loã lồ) và họ cảm thấy có lỗi vì điều họ đã làm (bất tuân Đức Chúa Trời). Lỗi lầm và sự sợ hãi thường đi đôi với nhau, điều đó giải thích lý do hai vợ chồng không muốn vui hưởng sự giao thông vào buổi chiều với Chúa trong vườn, A-đam thừa nhận “Tôi sợ” (c.10). Tìm cách trốn tránh Chúa chắc chắn là một nỗ lực vô ích (Thi Thiên 139:1-12), nhưng tội nhân vẫn cố thử điều không thể làm được.
Sự xấu hổ, sự sợ hãi và lỗi lầm biến đổi con người bên trong đến nỗi A-đam và Ê-va không thể vui hưởng gia đình trong khu vườn xinh đẹp của họ nữa. Những cây họ đã chăm sóc và say mê mà từ đó họ đã ăn, giờ chỉ là “những vật” được dùng để che giấu hai tội nhân khiếp sợ khỏi mặt Đức Chúa Trời. Đây không phải là điều các cây muốn làm, nhưng chúng không có sự chọn lựa.Thiên nhiên là một cửa sổ qua đó chúng ta thấy Đức Chúa Trời, nhưng A-đam và Ê-va đã biến nó thành một cánh cửa bị khoá để giữ Đức Chúa Trời ở ngoài ! Một ngày kia Chúa Cứu Thế sẽ chịu chết trên một cây để tội nhân sợ hãi có thể đến với Chúa và tìm thấy sự tha thứ.
4. Sự khám phá (Sáng Thế Ký 3:9-13)
Cách Đức Chúa Trời xuất hiện ra sao với tổ phụ đầu tiên của chúng ta, khi họ giao thông với Ngài trong vườn thì không được giải thích cho chúng ta. Có thể Ngài mang lấy một thân xác tạm thời che đậy, sự vinh hiển của Ngài như Ngài sẽ làm khi Ngài thăm viếng Áp-ra-ham nhiều năm sau đó (Sáng Thế Ký 18:1).
Tìm kiếm (Sáng Thế Ký 3:8).A-đam và Ê-va lẽ ra phải chạy đến với Đức Chúa Trời, xưng tội lỗi của họ, và cầu xin sự tha thứ của Ngài. Nhưng trái lại, họ đang trốn tránh Đức Chúa Trời, và Ngài phải tìm ra họ. “Chẳng có một người nào hiểu biết, chẳng có một người nào tìm kiếm Đức Chúa Trời” (Rô-ma 3:11). Nhà truyền giáo Billy Sunday nói rằng tội nhân không thể tìm thấy Đức Chúa Trời vì lý do tương tự như phạm nhân không thể tìm thấy cảnh sát: họ không tìm kiếm.Đức Chúa Trời đã bị gián đoạn sự nghỉ ngơi ngày Sa-bát để đi tìm người nam và người nữ Ngài đã dựng nên theo hình ảnh Ngài. [41]Khi Chúa Giê-xu thi hành chức vụ trên đất, Ngài đã phán: “Bởi Con người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu-ca 19:10). Ngài cũng làm gián đoạn ngày Sa-bát để chữa lành một người bệnh (Giăng 5:1-16) và một người mù (Giăng 9:1-41), và sự bênh vực của Ngài trước các chức sắc tôn giáo mù quáng là: “Cha ta làm việc cho đến bây giờ, ta đây cũng làm việc như vậy…Con chẳng tự mình làm việc gì được; chỉ làm điều chi mà Con thấy Cha làm, vì mọi điều Cha làm, Con cũng làm y như vậy” (Giăng 5:17, 19). Ngày nay, bởi sự làm chứng của Hội Thánh, Thánh Linh đang tìm kiếm kẻ hư mất và đem họ đến với Chúa Cứu Thế (Giăng 16:7-11 Công vụ 1:8).
Phán ra (Sáng Thế Ký 3:9-13). Đức Chúa Trời đã đặt những câu hỏi không phải vì Ngài cần thông tin. Là Đức Chúa Trời, Ngài biết mọi sự. Đúng hơn, Ngài đặt những câu hỏi vì lợi ích của chúng ta, để cho chúng ta cơ hội đối diện với những sự thật, thành thật và xưng nhận tội lỗi mình. Tuy nhiên, chúng ta đừng nghĩ việc Đức Chúa Trời phán với A-đam và Ê-va như một ông chủ độc ác nói với một nô lệ bất tuân hay một quan án giận dữ phán với một phạm nhân bị kết án. Đúng hơn, đó là một người cha có lòng tan vỡ nói với những đứa con bướng bỉnh của mình trong tình yêu.
Trước hết, Ngài gọi A-đam để cho ông cơ hội trả lời và công khai bước ra [42] Việc Đức Chúa Trời gọi ông là một hành động của ân điển, vì Đức Chúa Trời có thể phán lời xét đoán hủy diệt A-đam và Ê-va một cách công bằng. Sự kỳ diệu đầy nhân từ khác đó là A-đam có thể nghe tiếng Đức Chúa Trời và đáp lại, vì bản chất bên trong của ông đã bị tội lỗi làm ô uế đến nỗi ông không muốn đối diện với Đức Chúa Trời.
Khi A-đam và Ê-va ra khỏi chỗ ẩn núp, A-đam xưng nhận sự xấu hổ của họ (họ lõa lồ) và sự sợ hãi của họ (họ phạm tội). Không cần nói công khai, A-đam thừa nhận rằng họ đã ăn trái của cây cấm. Tuy nhiên, khi Đức Chúa Trời trực tiếp hỏi ông rằng ông có ăn trái ây đó hay không, A-đam không bao giờ nói “Vâng, tôi đã ăn !” Ngược lại, ông đổ lỗi cho Đức Chúa Trời và vợ ông ! Khi Đức Chúa Trời chất vấn Ê-va, bà đổ lỗi cho con rắn. (Bà không nói “Con rắn mà Chúa đã dựng nên”, nhưng có lẽ bà nghĩ vậy). Có những lời bào chữa nhưng không có những lời thú nhận.
Xin trích dẫn Billy Sunday lần nữa: “Lời bào chữa là bề ngoài của một lý do chứa đầy sự giả dối”. Vâng, Ê-va đã cho A-đam trái cây vì con rắn đã dụ dỗ bà, nhưng đó không phải là lý do A-đam phải bất tuân Đức Chúa Trời. Khi con người bắt đầu tạo ra những lời bào chữa, đó là chứng cớ họ không cảm biết sự ghê gớm của tội lỗi mình hoặc mình xưng nhận tội và ăn năn. Nếu tội nhân có thể tìm thấy lỗ hỏng nào đó, họ sẽ chạy nhanh qua đó như có thể.
5. Án phạt (Sáng Thế Ký 3:14-19)
Tình yêu của Đức Chúa Trời đối với tội nhân tuyệt nhiên không loại trừ sự căm ghét thánh khiết của Ngài đối với tội lỗi, vì trong lúc “Đức Chúa Trời đúng là sự yêu thương” (1Giăng 4:8, 16), cũng đúng là “Đức Chúa Trời là sự sáng” (1Giăng 1:5). Một Đức Chúa Trời thánh khiết phải giải quyết tội lỗi, vì ích lợi của tội nhân và vì vinh hiển của danh Ngài.
Con rắn (Sáng Thế Ký 3:14-15).Đức Chúa Trời trước hết tuyên án trên con rắn và sau đó trên ma qủi là kẻ đã lợi dụng con rắn. Dường như sinh vật mà Sa-tan sử dụng vốn đứng thẳng, vì Đức Chúa Trời đã hạ nó xuống bằng cách đặt nó trong bụi đất (Thi Thiên 72:9 Ê-sai 49:23 Mi-chê 7:17). Mặc dù Đức Chúa Trời đã rủa sả con rắn và đất (Sáng Thế Ký 3:17). Ngài không bao giờ rủa sả A-đam và Ê-va.
Lời Đức Chúa Trời đối với Sa-tan (c.15) được gọi là “protevangelium”. “Tin Lành đầu tiên”, vì đây là lời rao báo đầu tiên về Đấng Cứu Chuộc sẽ đến được tìm thấy trong Kinh Thánh. Đối với dân sự Đức Chúa Trời thời Cựu Ước, câu này là một sự báo trước của hy vọng (Ga-la-ti 4:1-4). Đối với Sa-tan, đó là sự tuyên chiến của Đức Chúa Trời, lên đến đỉnh điểm trong sự kết án dành cho nó (Rô-ma 16:20). Và đối với Ê-va, đó là sự bảo đảm rằng bà được tha thứ và Đức Chúa Trời sẽ sử dụng một người nữ để đem Đấng Cứu Chuộc vào thế gian (1Ti-mô-thê 2:13-15).
Con cháu (“hạt giống”) của con rắn và của người nữ tượng trưng cho gia đình của Sa-tan và gia đình của Đức Chúa Trời. Trong ví dụ về hạt giống (Ma-thi-ơ 13:24-30, 36-43), Chúa Giê-xu xác định rõ rằng Sa-tan có “con cái”, những người xưng là tín hữu thật nhưng thực tế là những kẻ giả mạo. Ví dụ bày tỏ rằng nơi đâu Đức Chúa Trời “trồng” một đứa con thật của vương quốc, Sa-tan đều đến và trồng một thứ giả mạo ! Cả hai mọc cùng nhau và sẽ không được phân cách cho đến mùa gặt cuối kỳ.
Đây là những người chối bỏ Chúa Giê-xu Christ và nhờ cậy một cách tin tưởng nơi sự công bình riêng của họ trong tôn giáo để đưa họ vào Thiên Đàng. Người Pha-ri-si là “con cái của ma qủi” theo như Giăng Báp-Tít (Ma-thi-ơ 3:7-10) và Chúa Giê-xu (Ma-thi-ơ 12:34 Ma-thi-ơ 23:15, 28, 33 Giăng 8:44). Không có ghi chép nào cho thấy Chúa Giê-xu gọi những người thâu thuế và tội nhân là “con cái của ma quỉ”, Ngài dành danh hiệu đó cho những người Pha-ri-si công bình riêng đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá.
Vì vậy suốt lịch sử, đã có một xung đột giữa Sa-tan và Đức Chúa Trời, con cái của Sa-tan và con cái Đức Chúa Trời. Như chúng ta sẽ khám phá trong bài học tới, cuộc chiến đã tiếp tục với Ca-in giết A-bên, vì Ca-in là “thuộc về kẻ ác” (1Giăng 3:12), là con cái của ma quỉ. Suốt lịch sử Do Thái, những kẻ thù của các tiên tri thật là những tiên tri giả những kẻ cũng nhơn danh Đức Giê-hô-va mà nói.
Chúa Giê-xu và Phao-lô đã mô tả những giáo sư giả là những kẻ giả mạo, “những con sói trong lốt chiên” (Ma-thi-ơ 7:13-15 Công vụ 20:28-31). Sa-tan kẻ giả mạo luôn để con cái của nó sẵn sàng chống đối dân sự của Đức Chúa Trời. Vào cuối kỳ, điều đó sẽ dẫn đến Đấng Christ chống lại Anichrist, kiệt tác giả mạo của Sa-tan (2Tê-sa-lô-ni-ca 2:1-17 Khải Huyền 13:1-18) [43] Tại thập tự giá, Sa-tan đã “làm thâm tím” gót chân Đấng Christ, nhưng vì sự chết và sống lại của Ngài, Đấng Christ đã giày đạp đầu Sa-tan và giành chiến thắng hoàn toàn trên nó (Ê-phê-sô 1:17-23 Cô-lô-se 2:14-15).
Người nữ (Sáng Thế Ký 3:16). Đức Chúa Trời củng cố lời hy vọng của Ngài đối với Ê-va bằng cách bảo đảm với bà rằng bà sẽ sinh con cái và vì vậy không chết ngay [44] Nhưng đặc quyền của người nữ với tư cách người sinh con (và cuối cùng là người đem Đấng Cứu Chuộc vào thế gian) sẽ bao gồm sự đau đớn bội phần trong sự mang thai cũng như sự đầu phục chồng. Sự đầu phục này không được xem như một phần của sự rủa sả hay như một chỉ thị để những người chồng có quyền tối cao trên vợ họ. Tân Ước cho thấy rõ rằng chồng và vợ những người yêu nhau và được đầy dẫy Thánh Linh sẽ vâng phục nhau (Ê-phê-sô 5:18 1Cô-rinh-tô 7:1-6).
Người nam (Sáng Thế Ký 3:17-19). Ê-va sẽ có sự đau đớn trong việc sinh con, nhưng A-đam sẽ có sự cực nhọc trong công việc khó nhọc hằng ngày nơi đồng ruộng. Khi làm việc để có thức ăn, A-đam sẽ đương đầu với những trở ngại, phải làm khó nhọc và đổ mồ hôi để được một vụ mùa, và điều này sẽ nhắc nhở ông rằng sự bất tuân của ông đã ảnh hưởng đến muôn vật (Rô-ma 8:18-23). Hơn thế, khi ông cày cấy đất, ông sẽ nhớ rằng một ngày nào đó ông sẽ chết và trở về với đất mà từ đó ông đã đến. A-đam người làm vườn đã trở thành A-đam người lao động khó nhọc.
6. Sự phục hồi (Sáng Thế Ký 3:20-24)
Vì cớ tính cách và Luật pháp của Đức Chúa Trời, Ngài phải xét đoán tội lỗi, nhưng vì cớ Con yêu dấu của Ngài, Đức Chúa Trời vui lòng tha thứ tội lỗi. Hãy nhớ, Chúa Giê-xu là Chiên Con “đã bị giết từ buổi sáng thế” (Khải Huyền 13:8 Công vụ 2:23 Công vụ 4:27-28), vì vậy Đức Chúa Trời đã thực hiện việc ban cho sự tha thứ và sự cứu rỗi.
Một tên mới (Sáng Thế Ký 3:20). A-đam tin những lời hứa của Đức Chúa Trời (c.15-16)và gọi tên vợ ông là “Ê-va’ nghĩa là “sự sống”. Đức tin đơn giản là tin Lời Đức Chúa Trời và hành động theo lời ấy.
Quần áo mới (Sáng Thế Ký 3:21). Đáp ứng của Đức Chúa Trời đối với đức tin của A-đam và Ê-va là bỏ những quần áo tầm thường do tự tạo và mặc cho họ quần áo có thể chấp nhận được mà chính Ngài đã cung cấp (Ê-sai 61:10). Các thú vật vô tội đã phải chết để người nam và người nữ có thể có một khởi đầu mới và trở lại sự tương giao với Chúa. Đó là một bức tranh về điều Chúa Giê-xu đã làm cho tội nhân trên thập tự giá khi Ngài chịu chết vì một thế giới tội lỗi (2Cô-rinh-tô 5:21).
Một gia đình mới (Sáng Thế Ký 3:2-24). Nếu A-đam và Ê-va ăn trái cây sự sống, họ sẽ sống mãi trên đất như những tội nhân, và tương lai của họ sẽ ảm đạm. Một ngày nào đó họ phải chết vì “tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô-ma 6:23). Vì thế, Chúa đã trục xuất hai vợ chồng khỏi vườn. Thật ra, Sáng Thế Ký 3:24 nói rằng Ngài “đuổi” họ ra. (Sáng Thế Ký 4:14 Sáng Thế Ký 21:10). Đức Chúa Trời đặt các thiên binh canh gác tại lối vào vườn để chắc chắn A-đam và Ê-va không tìm cách trở vào. Con đường đến “Cây sự sống” ngày nào đó sẽ được Chúa Giê-xu Christ mở ra bởi sự chết của Ngài trên thập tự giá (Giăng 14:6 Hê-bơ-rơ 10:1-25 Khải Huyền 2:7 Khải Huyền 22:1-2, 14, 19). [45]
Đời sống hằng ngày giờ đây sẽ trở thành một cuộc chiến đối với người nam và người nữ ở ngoài vườn khi họ lao khổ để có đồ ăn và nuôi gia đình họ. Họ vẫn có thể có mối tương giao với Đức Chúa Trời, nhưng họ hằng ngày sẽ chịu những hậu quả của tội lỗi và con cháu đời sau họ cũng sẽ như vậy. Luật của tội lỗi và sự chết giờ đây sẽ vận hành trong dòng dõi loài người cho đến cuối kỳ, nhưng sự chết và sự sống lại của Chúa Cứu Thế sẽ giới thiệu một luật mới: “Vì Luật pháp của Thánh Linh sự sống trong Chúa Giê-xu Christ đã khiến tôi tự do khỏi luật của tội lỗi và sự chết” (Rô-ma 8:2 NKJV).
5. Ở SÂN KHẤU TRUNG TÂM – CA-IN (Sáng Thế Ký 4:1-24)
Shakespeare đã viết: “Cả thế giới là một sân khấu, và mọi người nam người nữ chỉ là những diễn viên. Họ đều có lối ra và lối vào, và một người trong đời của mình diễn nhiều vai”. [46]
Bạn có nhớ những lời tương tự đó ở văn chương Anh 101? Shakespeare đã đúng: Chúng ta có nhiều vai để đóng trong đời khi từng lúc chúng ta liên hệ với nhiều người và đương đầu với những hoàn cảnh khác nhau. Điều qan trọng là chúng ta để Đức Chúa Trời viết kịch bản, phân vai và hướng dẫn sự hành động. Nếu chúng ta coi thường Ngài và tìm cách tự mình sáng tác vở kịch, câu chuyện sẽ có một kết thúc bi thảm.
Đó là điều đã làm hư hỏng Ca-in, đứa con loài người đầu tiên đươc sinh ra trên sân khấu của Hành tinh trái đất: Ông đã không để ý đến kịch bản của Đức Chúa Trời, “làm việc riêng của mình: và tạo ra một tình trạng lộn xộn từ điều đó. Sáng Thế ký đoạn 4 tập trung đèn sân khấu vào Ca-in, ông được đề cập 13 lần, và 7 lần A-bên được biết là “em của Ca-in”. Khi bạn xem xét đời sống của Ca-in và một số vai ông đóng, bạn sẽ hiểu rõ hơn thật quan trọng thể nào để chúng ta biết Đức Chúa Trời và làm theo ý muốn Ngài.
1. Người anh (Sáng Thế Ký 4:1-2a)
Đức Chúa Trời ra lệnh cho tổ phụ đầu tiên của chúng ta “sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất” (Sáng Thế Ký 1:28), và họ đã vâng theo mệnh lệnh này (Sáng Thế Ký 5:4). Mặc dù đúng là việc xây dựng một gia đình không phải là mục đích duy nhất cho hôn nhân, và không phải mọi cuộc hôn nhân đều được chúc phước bằng con cái, cũng đúng rằng con cái là một món quà quí giá từ Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 33:5 Sáng Thế Ký 48:9 Thi Thiên 127:3) và phải được đón nhận bằng sự vui mừng. Dân Do Thái thời Cựu Ước và Cơ Đốc nhân trong Hội Thánh thế kỷ thứ I sẽ kinh hoàng vì những thống kê về sự phá thai ngày nay và triết lý của những con người đã tạo ra chúng.
Tên “Ca-in” nghe giống như từ Hê-bơ-rơ nói về “đạt được”. Ê-va đã ca ngợi Đức Chúa Trời vì Ngài giúp bà vượt qua sự mang thai đầu tiên. Xét cho cùng, đây là một kinh nghiệm mới đối với bà và bà không có bác sĩ hay hộ sinh nào giúp đỡ bà. Sự mang thai thứ nhì của bà đem A-bên vào thế gian. Tên ông nghĩa là “hơi thở” và là từ được dịch là “sự hư không” ít nhất 38 lần trong sách Truyền Đạo. Tên của Ca-in nhắc nhở chúng ta rằng sự sống đến từ Đức Chúa Trời, còn tên của A-bên cho chúng ta biết rằng sự sống là ngắn ngủi.
Sáng Thế Ký là một “cuốn sách gia đình” và có nhiều điều để nói về anh em. Là con trưởng, Ca-in đặc biệt được chú ý, nhưng vì tội lỗi mình, ông dã đánh mất mọi sự và Sết thế chỗ ông (Sáng Thế Ký 4:25). Ích-ma-ên là con đầu lòng của Áp-ra-ham, nhưng Đức Chúa Trời đã không lưu ý ông và chọn Y-sác, Ê-sau là con đầu lòng của Y-sác, nhưng ông đã bị khước từ vì Gia-cốp. Và con đầu lòng của Gia-cốp là Ru-bên bị thay thế bởi 2 con trai của Giô-sép (Sáng Thế Ký 49:3-4 1Sử Ký 5:1-2). Thật ra, Đức Chúa Trời thậm chí đã sắp xếp lại trật tự ra đời của các con trai Giô-sép (Sáng Thế Ký 48:8-22). Suốt lịch sử Cựu Ước, quyền tối cao của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong việc Ngài chọn lựa những người nhận sự chúc phước của Ngài, vì mọi điều chúng ta nhận lãnh đều là bởi ân điển của Đức Chúa Trời.
Sự tranh cạnh ruột thịt giữa vòng các anh em là chủ đề khác trong Sáng Thế Ký. Ích-ma-ên bắt bớ Y-sác, Gia-cốp bỏ nhà để Ê-sau không thể giết ông, và các anh của Giô-sép có ý định giết ông nhưng quyết định bán ông làm nô lệ. Khi tội lỗi bước vào dòng dõi loài người, nó cho chúng ta những gia đình hỗn loạn và tan vỡ, và chỉ có Chúa mới có thể kết hợp gia đình trở lại.
2. Người làm việc (Sáng Thế Ký 4:2b)
Khi các con trai mình lớn lên, A-đam đặt họ làm việc trong những cánh đồng, và rõ ràng qua những năm tháng cho thấy mỗi con trai có những quan tâm và kỹ năng riêng của mình. Ca-in trở thành một nông dân và A-bên trở thành một người chăn chiên, là người đầu tiên trong nhiều người chăn chiên được tìm thấy trong Kinh Thánh, kể đến Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và các con trai ông, Môi-se và Đa-vít.
A-đam chắc chắn đã dạy các con trai ông lý do họ làm việc: đó là một phần trong mệnh lệnh ở sự sáng tạo của Đức Chúa Trời và họ là những người cộng tác với Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 1:26-31). Công việc không phải là một sự trừng phạt từ Đức Chúa Trời bởi cớ tội lỗi, vì A-đam đã có công việc để làm trong vườn trước khi ông và vợ ông đầu hàng sự cám dỗ của Sa-tan. Cách tiếp cận với công việc theo tinh thần Kinh Thánh đó là chúng ta được ban đặc quyền hợp tác với Đức Chúa Trời bằng cách dùng các khả năng trong sự tạo dựng của ngài vì lợi ích của con người, vì vinh hiển của Đức Chúa Trời (Cô-lô-se 3:22-23 1Tê-sa-lô-ni-ca 4:11-12 Truyền Đạo 9:10).
Công việc trong ý muốn của Đức Chúa Trời không phải là một sự rủa sả, đó là một phước hạnh “Trong 6 ngày ngươi hãy lao động và làm mọi công việc mình” (Xuất Ê-díp-tô 20:9 NKJV) là một phần luật pháp của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên cũng như mệnh lệnh của Ngài để nghỉ ngơi vào ngày Sa-bát. Kinh Thánh không có điều gì tốt để nói về sự lười biếng hoặc những kẻ lười biếng chờ trông người khác chu cấp cho mình (2Tê-sa-lô-ni-ca 3:6-15). Trước khi bắt đầu chức vụ công khai, Chúa Giê-xu đã lao động với tư cách một thợ mộc (Mác 6:3) và khi đi đường hay rao giảng, sứ đồ Phao-lô đã làm việc với tư cách một người may trại (Công vụ 18:1-3).
Là Cơ Đốc nhân chúng ta làm việc không phải chỉ để thanh toán những hóa đơn và chu cấp cho những nhu cầu của chúng ta. Chúng ta làm việc vì đó là cách Đức Chúa Trời chỉ định để chúng ta hầu việc Ngài và người khác, bởi đó quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta (1Cô-rinh-tô 10:31). Chúng ta làm việc không phải chỉ để kiếm sống, chúng ta làm viêc để tạo một đời sống, để phát triển những khả năng Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, và để tìm cách gia tăng chất lượng cùng số lượng công việc của chúng ta. Martin Luther bảo các cô gái trong trại sữa bò rằng họ có thể vắt sữa bò vì vinh hiển của Đức Chúa Trời và Theodore Roosevelt nói rằng “phần thưởng tốt nhất mà đời sống ban tặng là cơ hội để làm việc chăm chỉ ở công việc đáng làm”. Có lẽ các con trai đã hỏi cha họ vì sao công việc của họ quá khó khăn, và A-đam phải giải thích rằng Đức Chúa Trời đã rủa sả đất vì sự bất tuân của chính ông. “Ngươi sẽ ăn bánh bằng mồ hôi trên mặt mình” là lời tuyên án của Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 3:17-19 NKJV), và không có lối thoát. Nhưng câu hỏi này sẽ cho A-đam cơ hội nhắc nhở các con trai của ông lời hứa của Đức Chúa Trời về một Đấng Cứu Chuộc và một ngày khi sự sáng tạo được giải phóng khỏi ách nô lệ của tội lỗi (c.15).
3. Người thờ phượng (Sáng Thế Ký 4:3-7)
A-đam và Ê-va đã biết thờ phượng suốt những ngày kỳ diệu ấy trong vườn trước khi tội lỗi đem sự rủa sả của nó đến cho đời sống của họ và cho đất. Chắc chắn họ đã dạy con cái họ về Chúa và tầm quan trọng của việc thờ phượng Ngài. Những người làm việc cần phải là những người thờ phượng, nếu không họ có thể trở thành những kẻ thờ hình tượng, tập trung vào những sự ban cho chớ không phải Đấng Ban Cho, và quên rằng Đức Chúa Trời ban sức lực để làm việc và có của cải (Phục truyền 8:10-20).
Khi Đức Chúa Trời mặc cho A-đam và Ê-va da thú (Sáng Thế Ký 3:21) có lẽ Ngài đã dạy họ về của lễ và sự đổ huyết, và họ sẽ truyền lại chân lý này cho con cái họ. Sự thờ phượng thật là điều gì đó chúng ta phải học từ chính Đức Chúa Trời, vì chỉ một mình Ngài có quyền đặt để những qui tắc cho việc đến gần Ngài và làm đẹp lòng Ngài trong sự thờ phượng.
Đức Chúa Trời đã chấp nhận A-bên cùng của lễ của ông, và có lẽ bày tỏ điều này bằng cách giáng lửa từ trời để thiêu đốt những con vật (Lê-vi Ký 9:24 1Các vua 18:38 1Sử Ký 28:26), nhưng Ngài đã khước từ Ca-in cùng của lễ của ông. Ca-in bị khước từ không phải vì của lễ của ông, nhưng của lễ của ông bị khước từ vì Ca-in, lòng ông không ngay thẳng với Đức Chúa Trời. Chính bởi “đức tin” mà A-bên dâng một của lễ được chấp nhận hơn so với Ca-in (Hê-bơ-rơ 11:41) nghĩa là ông có đức tin nơi Đức Chúa Trời và ngay thẳng với Đức Chúa Trời.
Trong những năm sau đó, luật pháp Môi-se mô tả những của lễ về lúa và hoa quả (Lê-vi Ký 2:1-16 Phục truyền 26:1-11), vì vậy chúng ta có lý do để tin rằng những của lễ như vậy có thể được chấp nhận từ ban đầu. Nhưng thậm chí nếu Ca-in đem đến những của lễ loài vật và làm đổ huyết chúng, chúng sẽ không được Đức Chúa Trời chấp nhận vì cớ tình trạng tấm lòng của Ca-in. A-bên đã đem đến vật tốt nhất ông có và thật sự tìm cách làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, nhưng Ca-in đã không có thái độ đó của đức tin. “Vả, sự vâng lời tốt hơn của tế lễ, sự nghe theo tốt hơn mỡ chiên đực” (1Sa-mu-ên 15:22 Ê-sai 1:11-13 Ô-sê 6:6 Mi-chê 6:6-8 Mác 12:28-34).
Việc người ta dự những buổi nhóm tôn giáo và tham gia vào những hoạt động của nhà thờ không phải là bằng chứng cho thấy họ là những tín hữu thật. Có thể có “một hình thức tin kính” nhưng không bao giờ kinh nghiệm quyền năng cứu rỗi (2Ti-mô-thê 3:5). “Dân này chỉ lấy môi miệng tới gần ta, mà lòng chúng nó thì cách xa ta lắm” (Ê-sai 29:13 Ma-thi-ơ 15:8). Những của lễ tốn kém nhất mà xa rời sự đầu phục của tấm lòng thì không bao giờ có thể khiến người thờ phượng trở nên ngay thẳng trước mặt Đức Chúa Trời (Thi Thiên 51:16-17). “Đường của Ca-in” (Giu-đe 1:11) là con đường của ý riêng và sự vô tín.
Khi Đức Chúa Trời khước từ của lễ của Ca-in, ông trở nên rất giận dữ (từ Hê-bơ-rơ ngụ ý rằng ông “nóng bỏng sự giận dữ”). Đức Chúa Trời phán với ông cách riêng tư và tìm cách dẫn ông trở lại con đường đức tin, nhưng Ca-in đã kháng cự. Điều đó giống như Chúa ban cho chúng ta cơ hội khác để vâng lời Ngài, và điều đó giống như những tội nhân ương bướng từ chối sự giúp đỡ nhân từ của Ngài.
Chúa cảnh cáo Ca-in rằng sự cám dỗ giống như một con thú dữ đang nép mình nơi cánh cửa của đời sống ông, và tốt hơn là ông không nên mở cửa. Thật nguy hiểm để mang những mối hận thù và nuôi dưỡng những cảm xúc cay đắng trong lòng chúng ta, vì tất cả những điều này có thể bị Sa-tan sử dụng để dẫn chúng ta vào sự cám dỗ và tội lỗi. Đây là điều Phao-lô muốn nói khi ông viết: “đừng cho ma quỉ nhơn dịp” (Ê-phê-sô 4:27). Nếu chúng ta không cẩn thận, chúng ta có thể cám dỗ chính mình và đem đến sự hư hỏng cho mình.
4. Kẻ giết người (Sáng Thế Ký 4:8-10)
Chúng ta không thể phân cách mối liên hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời khỏi mối liên hệ của chúng ta với anh chị em mình. (Cả anh chị em ruột thịt cũng như anh chị em trong Chúa). Một tinh thần hay hiềm thù như Ca-in đã có, ngăn trở sự thờ phượng và phá huỷ mối thông công của chúng ta với Đức Chúa Trời và dân sự Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 5:21-26 Ma-thi-ơ 6:14-16). Thà chúng ta tạm ngưng sự thờ phượng và làm hoà với một người anh em còn hơn làm ô nhiễm của lễ của mình vì chúng ta có một ý tưởng xấu ở trong.
Sự giết người (Sáng Thế Ký 4:8). Sự giận dữ là một động cơ mạnh mẽ có thể dẫn đến bạo lực và thậm chí là sự giết người. Chúa Giê-xu đã dạy rằng sự giận dữ trong lòng về mặt đạo đức là tương đương với hành động giết người bằng tay (Ma-thi-ơ 5:21-26). Mỗi năm những người lái xe giận dữ đã gây ra những tai nạn giết chết 28. 000 người trên các đại lộ nước Mỹ và những con người giận dữ vì bị sa thải khỏi công việc đã giết hằng trăm người vô tội. Nếu Ca-in chú ý đến lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời và chấp nhận sự mời gọi nhân từ của Ngài (Sáng Thế Ký 4:7), ông sẽ không bao giờ trở thành một kẻ giết người.
Bao lâu sau khi sự thờ phượng của mình bị khước từ Ca-in đã dụ dỗ em mình ra xa khỏi nhà và giết đi? Có phải điều đó xảy ra vào cùng ngày hay ông đã ấp ủ vấn đề này một vài ngày? Có lẽ ông đã giết em mình trong lòng ông nhiều lần trước khi ông thật sự nhúng tay vào việc. Ông ghen tị em mình vì mối liên hệ của em ông với Đức Chúa Trời (1Giăng 3:12), nhưng Ca-in không sẵn sàng hòa thuận với Đức Chúa Trời. Khi chúng ta ghét người khác, đó là dấu hiệu chúng ta không bước đi trong sự sáng (1Giăng 2:9-11), và chúng ta không có tình yêu của Đức Chúa Trời trong lòng mình (1Giăng 3:10-16).
Sự nói dối (Sáng Thế Ký 4:9-10). Ca-in là con cái của ma quỉ (1Giăng 3:12), [47] có nghĩa ông ta là một kẻ giết người và kẻ nói dối (Giăng 8:44). Ông đã nói dối với em trai mình khi ông dụ người em đến nơi mà ông giết em. Ông đã nói dối với chính mình khi suy nghĩ rằng ông có thể làm một việc ác như thế và tránh được sự trừng phạt. Ca-in thậm chí đã tìm cách nói dối với Đức Chúa Trời và che đậy những việc gian ác của ông!. [48]
Có một sự tương đương rõ ràng giữa những cách đối xử của Đức Chúa Trời với Ca-in trong Sáng Thế ký đoạn 4 và những cách Ngài đối xử với A-đam cùng Ê-va trong Sáng Thế ký đoạn 3. Trong cả hai trường hợp, Chúa đều đặt những câu hỏi, không phải để lấy thông tin (vì Ngài biết mọi sự) nhưng để cho những kẻ có tội cơ hội nói sự thật và xưng nhận tội lỗi họ. Trong cả hai trường hợp, các tội nhân đều lảng tránh và tìm cách che giấu điều họ đã làm, nhưng cả hai lần Đức Chúa Trời đã đem tội lỗi họ ra ánh sáng và họ phải thừa nhận tội lỗi của mình.
A-đam và Ê-va đã chạy trốn khi họ nghe tiếng Đức Chúa Trời (c.8) nhưng Đức Chúa Trời đã nghe tiếng của A-bên kêu khóc từ đất và Ca-in không thể trốn tránh. [49] Sự đổ máu vô tội làm ô uế đất (Dân Số Ký 35:30-34) và máu đó kêu khóc vì sự công bình (Gióp 16:18 Ê-sai 26:21 Khải Huyền 6:9-10). [50] A-đam cùng Ê-va bị trục xuất khỏi vườn, và Ca-in trở thành kẻ lang thang bị khước từ trên đất.
Bạn càng nghĩ về tội lỗi Ca-in, nó càng trở nên ghê tởm. Sự giết người không bị thúc đẩy bởi sự cảm xúc tức thời; nó đã được suy tính trước một cách kỹ càng. Ca-in không giết một kẻ lạ mặt để tự vệ, ông đã giết chính em mình vì đố kỵ và thù ghét. Hơn nữa, Ca-in đã làm điều đó sau khi ở bàn thờ để thờ phượng Đức Chúa Trời và bất chấp lời cảnh cáo và lời báo trước của Đức Chúa Trời. Cuối cùng một khi hành động kinh tởm đã được thực hiện, Ca-in xem nhẹ tất cả điều đó và tìm cách thoát ra bằng cách nói dối.
5. Kẻ lang thang (Sáng Thế Ký 4:11-15)
Một kẻ lang thang không có nhà, một kẻ trốn tránh đang chạy khỏi nhà, một khách lạ xa nhà, nhưng một kẻ hành hương đang hướng về nhà. “Ta đã đặt trước mặt ngươi sự sống và sự chết, phước lành và sự rủa sả. Vậy, hãy chọn sự sống” (Phục truyền 30:19).Ca-in đã chọn lựa sai, và thay vì làm một người hành hương trong đời sống, ông trở thành một khách lạ và một kẻ trốn tránh, lang thang trên đất.
Sự rủa sả của Đức Chúa Trời (c.12). Đức Giê-hô-va đã rủa sả con rắn (Sáng Thế Ký 3:14) và đất (c.17), nhưng Ngài không rủa sả A-đam và Ê-va. Tuy nhiên, Ngài đã rủa sả con trai họ là Ca-in, một đứa con của ma quỷ (con rắn). Ca-in đã làm ô uế đất bằng máu của em trai ông, và giờ đây đất sẽ không làm việc cho ông. Nếu A-đam lao khổ, và vật lộn ngày này qua ngày nọ, ông sẽ có một mùa gặt, nhưng Ca-in thì không bao giờ có được kết quả từ sự lao khổ của mình. Vì vậy ông không thể tiếp tục làm một nông dân. Tất cả những gì ông có thể làm là lang thang từ nơi này đến nơi khác và kiếm sống.
Những hối hận của Ca-in (Sáng Thế Ký 4:13-14). Ca-in chẳng bao giờ ăn năn về tội lỗi mình, những lời của ông chỉ bày tỏ sự ân hận và hối tiếc. Ông không nói: “Sự vi phạm của tôi nhiều hơn tôi có thể mang”. Ông chỉ quan tâm đến sự trừng phạt, chớ không phải tính cách của mình. Nếu ông không lang thang từ nơi này sang nơi khác, ông sẽ ở trong nguy hiểm, nhưng nếu ông ở một nơi, ông sẽ chết đói. Đất đã trở nên nghịch với ông. [51] Bất cứ ai Ca-in gặp sẽ là một người bà con có thể muốn trả thù sự giết hại A-bên. Ông có thể làm gì?
Bởi việc thù ghét và giết em mình rồi không chịu ăn năn, Ca-in đã tạo ra cho mình một đời sống không thể chịu đựng nổi. Ông đã mở cửa cho sự cám dỗ (Sáng Thế Ký 4:7) đóng cửa đối với gia đình, Đức Chúa Trời, và tương lai của ông. Cho dù ông sống ở đâu hay làm gì, Ca-in luôn là một người không yên nghỉ, là người không có phương cách chữa trị nào cho mình.
Sự thương xót của Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 4:15). Đức Chúa Trời đã làm một việc kỳ lạ: Ngài đặt một dấu trên Ca-in, là dấu sẽ bảo vệ ông khỏi những cuộc tấn công của những người muốn giết ông. Chúng ta không biết dấu này là gì hay vì sao người ta sẽ nhận ra nó như dấu bảo vệ của Đức Chúa Trời, nhưng nó có hiệu quả. Đây hoàn toàn là một hành động thương xót của Đức Chúa Trời.
Tại sao Đức Chúa Trời cho phép một kẻ giết người độc ác như Ca-in ra đi tự do? Trong sự thương xót của Ngài, Đức Chúa Trời không giáng cho chúng ta điều chúng ta đáng chịu, và trong ân điển của Ngài, Ngài ban cho chúng ta điều chúng ta không đáng lãnh. Đó là bản tính của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời tha mạng cho Ca-in, nhưng đó không phải là kết thúc của câu chuyện. Cuối cùng Ca-in đã chết và “sau sự chết là sự phán xét” (Hê-bơ-rơ 9:27). Toàn bộ sự văn minh mà ông đã xây dựng bị hủy hoại trong Cơn Nước Lụt, và sự ghi chép về đời sống được Thánh Linh để lại như một sự cảnh cáo cho bất cứ ai giả bộ thờ phượng, chơi đùa với tội lỗi và không xem sự cám dỗ là nghiêm trọng. “Đường của Ca-in” (Giu-đe 1:11) không phải là con đường hẹp dẫn đến sự sống (Ma-thi-ơ 7:13-14).
6. Người xây dựng (Sáng Thế Ký 4:16-24)
Đức Chúa Trời giữ Lời Ngài và bảo vệ Ca-in khi ông lang thang. Một ngày kia, ông tìm thấy một nơi dường như thích hợp để ông định cư, và ông quyết xây một thành. Đất sẽ không đầu phục sức mạnh của nó trước sự lao nhọc của Ca-in với tư cách một nông dân, nhưng Ca-in có thể lao động, xây dựng trên đất và thành công. Tuy nhiên, Ca-in không bao giờ chấm dứt làm kẻ trốn tránh, vì địa danh nơi ông định cư nghĩa là “lang thang”. Quyền công dân của ông không phải ở trên trời (Phi-líp 3:20-21), ông cũng không có hy vọng gì để đến thành trên trời (Hê-bơ-rơ 11:9-16). Trời duy nhất mà Ca-in biết là thành của ông trên đất. [52]
Ca-in đã là một người có gia đình trước khi ông lang thang khỏi Ê-đen, hay ông đã tìm thấy một người vợ suốt những cuộc hành trình của mình? Ông đã nói cho nàng biết ông giết em mình chăng? Chúng ta không biết, nhưng chắc chắn ông phải giải thích dấu Đức Chúa Trời đã đặt trên ông. Ca-in tìm một người vợ là điều bình thường, vì ông không chỉ muốn xây một thành, nhưng cũng muốn xây dựng một gia đình. Có cách nào khác tên của ông có thể được nhớ đến ngoài con cháu ông?Ca-in không biết rằng tên ông và những việc làm xấu xa của ông sẽ được viết trong Lời của Đức Chúa Trời để mọi người đọc.
Vợ Ca-in sinh cho ông một con trai mà ông đặt tên là Hê-nóc, tên này có liên hệ với từ Hê-bơ-rơ chỉ về “hiến dâng”. Ca-in đặt tên thành của mình theo tên con trai ông, nhưng chúng ta không được cho biết thành được hiến dâng cho ai hay cho điều gì. Sáu thế hệ con cháu của Ca-in được kể tên (Sáng Thế Ký 4:17-22), một số người đã nổi tiếng.
Lê-méc là người đầu tiên có hai vợ, ông cũng là một người khoe khoang và là một kẻ giết người. Vì sao và thể nào người trai trẻ làm ông bị thương, chúng ta không biết, nhưng tại sao một người trai trẻ phải bị giết vì đã gây nên một vết thương? Việc Lê-méc đề cập đến sự bảo vệ Ca-in (c.24) cho thấy câu chuyện của Ca-in đã được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó cũng gợi ý rằng Lê-méc nghĩ sự bảo vệ của Đức Chúa Trời cũng mở rộng cho ông. Nếu Đức Chúa Trời báo thù cho một kẻ giết người như Ca-in, vậy chắc chắn Ngài sẽ báo thù cho Lê-méc cho việc “bảo vệ chính ông”. Hãy chú ý rằng Lê-méc muốn sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, nhưng ông không đề cập đến danh Đức Chúa Trời.
Dân trong thành Hê-nóc có những nghề nghiệp khác nhau. Một số người theo Gia-banh và chăn nuôi súc vật (c.20). Những người khác học từ em trai của Gia-banh là Giu-banh và bỏ hết tâm sức vào việc tạo và chơi các nhạc cụ (c.21). Những người theo Tu-banh Ca-in là những thợ rèn kim loại (c.22), điều này cho thấy về công nghiệp chế tạo nông cụ, dụng cụ xây dựng và vũ khí cá nhân.Ca-in đã sống trong một xã hội giàu có về văn hoá cũng như về công nghiệp và sự sản xuất thực phẩm. Trong thành Hê-nóc, họ có mọi thứ trừ Đức Chúa Trời.
Khi bạn đặt gia hệ của Ca-in tiếp theo gia hệ của Sết (chương 5), bạn không khỏi chú ý sự tương tự về các tên. Bạn có Hê-nóc và Ê-nót (c.6) rồi Hê-nóc (c.18), Mê-hu-da-ên và Ma-ha-la-le (c.12), Mê-tu-sa-ên và Mê-tu-sê-la (c.21), Lê-méc và Lê-méc (c.25). Lê-méc của Ca-in có 3 con trai (Gia-banh, Giu-banh và Tu-banh- Ca-in) và Nô-ê có 3 con trai (Sem, Cham và Gia-phết).
Sự tương tự này về các tên có nghĩa gì? Có lẽ đó là cách Đức Chúa Trời cho chúng ta biết rằng dòng dõi bất kính của Ca-in (vẫn ở cùng chúng ta) làm hết khả năng để bắt chước dòng dõi tin kính của Sết. Xét cho cùng, Sa-tan là kẻ giả mạo. Nó có thể bắt chước tên của những tín hữu thật, nhưng nó không thể tạo ra những tín hữu. Có một Hê-nóc trong hai gia phả, nhưng Hê-nóc của Ca-in không đồng đi với Đức Chúa Trời và một ngày nọ không biến mất và không đến Thiên Đàng! (c.24). “Có gì trong một cái tên?” Không gì cả, nếu bạn không biết và không thuộc về Chúa!
Nhưng bi kịch đó là hai dòng dõi, dòng dõi bất kính của Ca-in và dòng dõi tin kính của Sết – cùng đến và hoà hợp (Sáng Thế Ký 6:1-2). Bức tường ngăn cách đã sụp đổ, và điều này cuối cùng tạo ra xã hội gian ác mà tội lỗi của nó đã đem đến sự đoán xét về Cơn Nước Lụt. Cái nhãn bạo lực của Lê-méc đã lần ra (c.5, 11, 12) và vào thời Nước Lụt chỉ có 8 người tin sự cảnh cáo của Đức Chúa Trời và hành động theo bởi bức tin. Những người còn lại đã bị hủy diệt.
Gia phả của Ca-in đã kết thúc cùng với gia đình của Lê-méc (Sáng Thế Ký 4:19-24), một kẻ giết người ngạo mạn có ba con trai chế tạo ra những đồ dùng cho thế giới này. Dòng dõi của Sết kết thúc với Nô-ê (“sự yên nghỉ”) là người có ba con trai đã cho thế giới một khởi đầu mới sau Cơn Nước Lụt. Thế giới thời ấy có lẽ khâm phục những thành tựu của Ca-in, Đức Chúa Trời đã xóa sạch họ khỏi mặt đất.
“Thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (1Giăng 2:17).
6. KHI QUAN ĐIỂM ẢM ĐẠM, HÃY CỐ GẮNG NHÌN LÊN (Sáng Thế Ký 4:25-6:28)
Tội lỗi đã bước vào dòng dõi loài người, và chẳng bao lâu để sự đồi bại sinh sôi lan tràn và làm ô uế sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Giống như một khối ung thư, điều ác tiêm nhiễm sự văn minh và đem đến sự chết bất cứ nơi đâu nó đi. Những người quản trị của Đức Chúa Trời trên đất, được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, không thể quản lý chính đời sống mình chớ đừng kể đến sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, và mọi sự bắt đầu suy sụp.
1.Sết- một khởi đầu mới từ Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 4:25) (Sáng Thế Ký 5:1-5)
Tia hy vọng duy nhất trong thời kỳ tăm tối đó là lời hứa của Đức Chúa Trời rằng một Đấng Cứu Chuộc ngày nào đó sẽ được sinh ra bởi một người nữ và chiến thắng con rắn (Sáng Thế Ký 3:15). Nhưng A-bên đã chết, vì vậy ông không thể sinh con, và Ca-in kẻ giết người vô tín đã đi lang thang và xây một thành trong xứ Nốt, phía Đông Ê-đen. Lời hứa của Đức Chúa Trời sẽ được thực hiện chăng? Làm sao nó có thể được thực hiện?
Đức Chúa Trời có quyền tối cao trong mọi sự và những kế hoạch của Ngài không bị làm thất bại bởi những cách ăn ở dại dột và tội lỗi của loài người. Vì Ngài là Đức Chúa Trời tối cao, Ngài “làm mọi sự theo dự định của ý muốn Ngài” (Ê-phê-sô 1:11 NKJV). “Nhưng Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên trời, Ngài làm bất cứ điều gì Ngài hài lòng” (Thi Thiên 115:3 NKJV). Chúa đã giúp Ê-va có thể thụ thai và sinh một con trai là người được bà đặt tên là Sết (“được ban cho”) vì Đức Chúa Trời đã chỉ định ông thay thế cho A-bên.
Sáng Thế Ký 5:1-32 là gia phả đầu tiên trong Kinh Thánh và giới thiệu “sách về dòng dõi của A-đam” (c.1). Mười thế hệ được liệt kê ở đây, từ A-đam cho đến Nô-ê, giống như 10 thế hệ được liệt kê từ Sem đến Áp-ra-ham trong “dòng dõi của Sem” (Sáng Thế Ký 11:10-26) [53] Tám lần trong Sáng Thế ký đoạn 5, bạn tìm thấy nhóm từ buồn bã “và ông chết” vì sự chết giờ đây đã cai trị trên loài người bởi tội lỗi của A-đam (Rô-ma 5:12-17, 21). Tội lỗi và sự chết vẫn cai trị hôm nay nhưng nhờ Chúa Giê-xu Christ, chúng ta có thể “cai trị trong sự sống” (Rô-ma 5:17, 21).
Trong lịch sử Kinh Thánh, sự ra đời của một con trẻ rất thường tạo nên một thay đổi giữa sự thất bại và chiến thắng đối với dân sự Đức Chúa Trời. Suốt những năm khó khăn của dân Do Thái ở Ai Cập, Môi-se đã ra đời và trở thành người giải phóng dân tộc ông (Xuất Ê-díp-tô 2:1-10). Khi ngọn đèn của lời tiên tri cháy rất yếu, Sa-mu-ên được sinh ra để đem Y-sơ-ra-ên trở lại với Lời Đức Chúa Trời (1Sa-mu-ên 1:1-3:21), và khi vương quốc đang tan rã dưới quyền Sau-lơ, Đức Chúa Trời đã ban cho Y-sai một con trai, người mà ông đặt tên là Đa-vít, người Đức Chúa Trời đã chọn để làm vua kết tiếp (Ru-tơ 4:18-22 1Sa-mu-ên 16:1-23). Tại một thời điểm rất suy yếu trong lịch sử Do Thái, bởi ân điển Đức Chúa Trời, một con trai bé nhỏ đã tiếp nối dòng Mê-si từ Đa-vít (2Các vua 11:1-3). Mặc cho những cuộc tấn công của Sa-tan và sự bất tuân của dân sự Ngài, Đức Chúa Trời đã thành tín hành động để lời hứa của Ngài về một Đấng Cứu Chuộc sẽ được thực hiện.
Biết được điều này sẽ khích lệ dân sự Đức Chúa Trời khi họ thấy thế gian ngày càng hướng về tội lỗi và sự chống nghịch. Đức Chúa Trời có quyền tối cao và Ngài sẽ thực hiện những mục đích của Ngài.
2. Ê-nót - kêu cầu Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 4:26) (Sáng Thế Ký 5:6-11)
Sết được 105 tuổi thì con trai của ông là Ê-nót ra đời (516). “Ê-nót” nghĩa là “con người” và đến từ một từ Hê-bơ-rơ có nghĩa “mỏng manh yếu đuối”. Đó là từ chỉ về con người, nhấn mạnh chúng ta thật sự mỏng manh và yếu đuối biết bao trong chính mình.
Một điều đáng chú ý được ghi lại có liên quan đến sự ra đời của con trai này: vào thời đó, con người bắt đầu nhóm lại để thờ phượng Đức Chúa Trời, rao danh Ngài và cầu nguyện. [54] Có một sự phục hưng về sự thờ phượng chung và sự cầu nguyện tin kính khi con cháu của của Sết nhóm nhau trong danh của Chúa. Trong khi dân Ca-in trần tục khoe khoang về sức mạnh và sự can đảm của họ (Sáng Thế Ký 4:23-24), dân Sết tin kính qui vinh hiển cho danh của Chúa.
Suốt thánh sử, chính những người tin kính còn sót lại đã giữ cho công việc Chúa tiếp tục trên thế giới. Từ đời này sang đời khác, dân tộc Y-sơ-ra-ên đã chìm đắm trong sự thờ hình tượng và trạng thái hôn mê về thuộc linh, nhưng một số người tin kính sót lại được dấy lên để giữ cho ánh sáng tiếp tục cháy. Những con người can đảm này đã cầu xin Đưc Chúa Trời sự giải cứu, Ngài nghe họ và đáp lời cầu nguyện của họ.
Sau Cơn Nước Lụt, gia đình nhỏ của Nô-ê là những người sót lại được Đức Chúa Trời sử dụng để cư trú trên đất. Tiên tri Ê-li nghĩ chỉ một mình ông hầu việc Đức Giê-hô-va, nhưng 7. 000 người trong xứ vẫn trung tín với Chúa (1Các vua 19:9-18). Bất cứ ai đã viết Thi Thiên 119:1-176 người ấy là người thuộc về một số người trung tín còn sót lại (c.63) và những tiên tri viết về những người tin kính sót lại trong thời của họ (Ê-sai 10:20-23 Ê-sai 37:31-32 Giê-rê-mi 11:23 Mi-chê 4:7 Ma-thi-ơ 3:16). Ê-sai đã đặt tên cho một trong số các con trai ông là “một số người sót lại sẽ trở về” (Ê-sai 7:3) và một số người sót lại thật đã trở về xứ họ sau sự lưu đày ở Ba-by-lôn. Đức Chúa trời đã sử dụng họ để xây lại đền thờ cùng thành Giê-ru-sa-lem và phục hồi dân tộc Do Thái như một thực thể chính trị.
Có bao nhiêu người Đức Chúa Trời cần để thực hiện một công việc? Mười người công bình ở Sô-đôm lẽ ra có thể cứu được thành khỏi sự hủy diệt (Sáng Thế Ký 18:16) và Chúa Giê-xu đã phán Ngài hiện diện nếu chỉ hai hay ba người nhóm lại nhơn danh Ngài (Ma-thi-ơ 18:20). Chúa Giê-xu đã ban Thánh Linh tại lễ Ngũ Tuần để ban quyền phép cho 120 tín hữu, và Phao-lô đã rao Phúc Âm cho đế quốc La Mã với một nhóm nhỏ gồm những người nam và người nữ hoàn toàn dâng mình cho Chúa. Đức Chúa Trời luôn tìm kiếm những người sót lại cầu nguyện, tin cậy Ngài và thực hiện công việc.
Vì vậy, khi công việc của Chúa có vẻ đang thất bại, và bạn cảm thấy như mình là người duy nhất còn lại để hầu việc Đức Chúa Trời, hãy nhớ đến Ê-nót và những người tin kính còn sót lại trong thời của ông đã kêu cầu Chúa. “Vì không có gì ngăn trở Đức Giê-hô-va giải cứu bởi nhiều người hay ít người” (1Sa-mu-ên 14:66 NKJV).
Sáng Thế Ký 5:1-11; xem giải nghĩa Sáng Thế Ký 4:25-26
3. Hê-nóc đồng đi với Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 5:12-27)
Những người như Kê-nan, Ma-ha-la-le và Giê-rẹt có thể dường như không quan trọng đối với câu chuyện lớn của Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi, nhưng họ quan trọng. Vì họ là “những mắc xích sống”trong chuỗi dòng dõi lớn đi từ Sết đến sự ra đời của Chúa Giê-xu Christ.Lời hứa của Đức Chúa Trời trong Sáng Thế Ký 3:15 không bao giờ có thể được thực hiện nếu nó không vì sự trung tín của nhiều người bình thường mà đối với chúng ta chỉ là những cái tên xa lạ trong một gia phả xưa.
Khi Hê-nóc được 65 tuổi, vợ ông sinh một con trai được họ đặt tên là Mê-tu-sê-la (“người của chiếc lao tiêu”). Đây là một bước ngoặt trong đời Hê-nóc, vì khi đó ông bắt đầu đồng đi với Chúa (Sáng Thế Ký 5:22, 24 Sáng Thế Ký 6:9). Phải chăng trách nhiệm nuôi dưỡng một đứa con trai trong một thế giới bất kính như thế đã thử thách Hê-nóc đến nỗi ông biết mình cần sự giúp đỡ của Chúa? Hoặc khi đứa trẻ ra đời, Đức Chúa Trời đã ban cho Hê-nóc cái nhìn về tương lai để ông biết Cơn Nước Lụt sắp đến? Chúng ta không biết nhưng chúng ta thật biết rằng sự ra đời của đứa trẻ này đã thay đổi đời sống Hê-nóc.
Ý nghĩa của tên Mê-tu-sê-la không quan trọng, nhưng đời sống trường thọ 969 năm của ông là quan trọng. Trong năm Mi-tu-sê-la qua đời, Cơn Nước Lụt xảy đến! [55] Có lẽ Chúa đã cho Hê-nóc biết tin này sau khi đứa trẻ ra đời, và điều đó thu hút lòng ông đến nỗi ông bắt đầu đồng đi với Đức Chúa Trời và làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. “Vì mọi vật này sẽ bị tiêu tán, thì anh em phải là những người ở trong sự ăn ở thánh khiết và sự tin kính dường nào” (2Phi-e-rơ 3:11 NKJV). Việc Chúa Giê-xu sắp trở lại để xét đoán thế gian phải thôi thúc dân sự Đức Chúa Trời đi đến những đời sống thánh khiết và sự hầu việc vâng phục (1Giăng 2:28-3:3).
Nhóm từ khiêm tốn “và ông chết” không được sử dụng cho Hê-nóc, vì Hê-nóc là một trong số hai người trong Kinh Thánh không bao giờ chết. Cả Hê-nóc và Ê-li đều được cất lên trời khi còn sống (2Các vua 2:1-11). Một số học giả nhìn thấy trong Hê-nóc một sự “cất lên” trước thời Nước Lụt một hình ảnh về Hội Thánh được cất lên trời trước khi Đức Chúa Trời giáng hoạn nạn trên đất (1Tê-sa-lô-ni-ca 4:13-5:11).
Chính “bởi đức tin” mà Hê-nóc đã được cất lên trời (Hê-bơ-rơ 11:5). Ông tin Đức Chúa Trời, đồng đi với Đức Chúa Trời, và đã đi để ở cùng Đức Chúa Trời, đây là một tấm gương cho mọi người chúng ta noi theo. Hãy hình dung thật khó khăn thế nào để đồng đi với Đức Chúa Trời suốt những năm đó trước Cơn Nước Lụt, khi sự xấu xa và bạo lực đang tiếp diễn và chỉ một số người sót lại tin nơi Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 6:5). Nhưng đời sống đức tin của Hê-nóc không phải là một việc riêng tư, vì ông đã dạn dĩ tuyên bố rằng Đức Chúa Trời sẽ đến để xét đoán tội lỗi của thế gian (Giu-đe 1:14-15). Trong thời của ông sự xét đoán về Cơn Nước Lụt đã xảy đến, nhưng sự xét đoán mà Hê-nóc rao ra sẽ xảy đến khi Chúa Giê-xu Christ tái lâm, dẫn đầu các thiên binh và kết án Sa-tan cùng những người theo nó (Khải Huyền 19:11). Đời sống và sự làm chứng của Hê-nóc nhắc nhở chúng ta rằng có thể trung tín với Đức Chúa Trời giữa “dòng dõi hung ác và ngang ngạnh” (Phi-líp 2:15). Cho dù ngày có thể tăm tối ra sao hay những tin tức xấu thế nào, chúng ta có lời hứa về sự tái lâm của Chúa mình, khích lệ chúng ta và thôi thúc chúng ta trở nên tin kính. Một ngày nào đó, tội lỗi sẽ bị xét đoán và dân sự Đức Chúa Trời sẽ được ban thưởng về sự trung tín của họ, vì vậy, chúng ta có mọi lý do để được khích lệ khi chúng ta đồng đi với Đức Chúa Trời.
4. Nô-ê - sự yên nghỉ và sự yên ủi từ Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 5:12-27) (Sáng Thế Ký 5:28-6:8)
Dù họ mang tên giống nhau, Lê-méc trong dòng dõi của Sết khác hoàn toàn với Lê-méc trong dòng dõi của Ca-in (Sáng Thế Ký 4:18-24). Lê-méc của dòng Sết sinh một con trai, Nô-ê, là người đồng đi với Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 6:9) và được Đức Chúa Trời sử dụng để giữ lại dòng dõi loài người và duy trì lời hứa về Đấng Mê-si-a. Lê-méc của dòng Ca-in đã giết một người trai trẻ, là người làm ông bị thương, và sau đó khoe khoang với những người vợ của mình về việc làm độc ác của ông.
Hy vọng (Sáng Thế Ký 5:28-32). Mối quan tâm lớn của Lê-méc là loài người tìm thấy sự yên ủi và sự yên nghỉ giữa một thế giới gian ác cần phải lao nhọc và đổ mồ hôi chỉ để tồn tại. Đời sống khó khăn, và hy vọng duy nhất mà tín hữu thật có là sự ngự đến của Đấng Cứu Chuộc đã được hứa ban. Lê-méc đặt tên con trai ông là Nô-ê, nghe như từ Hê-bơ-rơ nói về “sự yên ủi”. Lời cầu nguyện của ông đó là con trai ông bằng cách nào đó sẽ đem đến cho thế giới sự yên nghỉ và sự yên ủi mà con người hết sức cần đến. Những thế kỷ sau đó, những kẻ mệt mỏi sẽ nghe tiếng Chúa Giê-xu phán: “Hãy đến cùng ta, hỡi mọi kẻ lao nhọc và gánh nặng, ta sẽ cho các ngươi sự yên nghỉ” (Ma-thi-ơ 11:28 NKJV).
Lê-méc được 682 tuổi và Nô-ê được 500 tuổi thì con trai của Nô-ê là Gia-phết ra đời. Sự liệt kê trong Sáng Thế Ký 5:32 không phải là thứ tự ra đời của các con trai, vì Cham là con trai út của Nô-ê (Sáng Thế Ký 9:20-24) và Gia-phết là con lớn nhất của ông (Sáng Thế Ký 10:21). Thứ tự ra đời sẽ là Gia-phết, Sem và Cham.
Sự thỏa hiệp (Sáng Thế Ký 6:1-7). Sau chương 3, Sa-tan không được đề cập tên trong Sáng Thế ký, nhưng nó và những kẻ theo nó đang hành động hết sức để ngăn trở Đấng Cứu Chuộc đã hứa ban được sinh ra. Đây là mục đích của Sa-tan suốt lịch sử Cựu Ước. Xét cho cùng, nó không muốn đầu của nó bị Chúa Cứu Thế giày đạp! (Sáng Thế Ký 3:15). Đức Chúa Trời đã tuyên chiến trên Sa-tan và kẻ lừa dối này có ý định chống lại.
Một trong những mưu kế thành công nhất của Sa-tan là sự thỏa hiệp. Nếu nó có thể lừa dối dân sự Đức Chúa Trời trong việc từ bỏ địa vị đặc quyền của họ về sự phân rẽ khỏi tội lỗi và giao thông với Đức Chúa Trời, thì nó có thể cản trở họ và dẫn họ vào tội lỗi. Nó đã làm điều này cho Y-sơ-ra-ên trong xứ Mô-áp (Dân Số Ký 25:1-18 Thi Thiên 106:28-31), và cũng sau khi họ chinh phạt xứ Ca-na-an (Các Quan Xét 2:1-23 Thi Thiên 106:34-48). Các tiên tri đã cảnh cáo dân Do Thái đừng thỏa hiệp với sự thờ hình tượng của những kẻ ngoại đạo quanh họ, nhưng những lời cảnh cáo của họ không được để ý, và dân tộc đã kinh nghiệm sự thất bại nhục nhã trong tay kẻ thù họ.
Kế hoạch của Sa-tan để lừa dối dân sự Đức Chúa Trời trong thời Nô-ê là gì? Dụ dỗ dòng dõi tin kính của Sết (“các con trai của Đức Chúa Trời”) hòa đồng với dòng dõi bất kính của Ca-in (“các con gái loài người”) và do đó từ bỏ sự dâng mình cho Chúa. Đó là sự cám dỗ tương tự mà Cơ Đốc nhân đối diện ngày nay: thân thiết với thế gian (Gia-cơ 4:14), yêu thế gian (1Giăng 2:15-17), và sống theo thế gian (Rô-ma 12:2), hơn là phân rẽ với thế gian (2Cô-rinh-tô 6:14-7:1). Dĩ nhiên điều này có thể dẫn đến việc “bị kết án cùng với thế gian” (1Cô-rinh-tô 11:32). Lót là một gương về hiểm họa này (Sáng Thế Ký 13:1-18 Sáng Thế Ký 19:1-38).
Một số người giải thích xem Sáng Thế Ký 6:1-7 là một sự xâm lấn của các thiên sứ sa ngã đã ăn ở với những người nữ và sinh ra một dòng dõi những người cao lớn [56] Thú vị như lý thuyết này, nó tạo ra nhiều vấn đề hơn là giải quyết vấn đề, không một chút nào trong đó là sự kết hợp của các vị thần không giới tính với những con người xác thịt và huyết. Thậm chí nếu những sự kết hợp như vậy đã xảy ra, lẽ nào có thể có con cái và tại sao họ sẽ là những người cao lớn? Và những “người cao lớn” này (Nephilim, “những kẻ sa ngã”) làm sao sống sót qua Cơn Nước Lụt (c.4 Dân Số Ký 13:31-33) hay có một sự xâm lấn thứ 2 của các thiên sứ sa ngã sau Cơn Nước Lụt chăng?
Thuật ngữ “các con trai của Đức Chúa Trời” thật chỉ về các thiên sứ trong Gióp 1:6, 21 Gióp 38:7 nhưng đây là những thiên sứ không sa ngã, đã trung tín hầu việc Đức Chúa Trời. [57] Thậm chỉ nếu các thiên sứ sa ngã có thể khiến họ xuất hiện trong thân xác loài người, tại sao họ lại muốn cưới những người nữ và định cư trên đất? Chắc chắn vợ và những người láng giềng của họ sẽ nhận ra điều gì đó khác về họ và điều này sẽ tạo ra những vấn đề. Hơn nữa, sự nhấn mạnh trong Sáng Thế Ký 6:1-22 về tội lỗi của loài người chớ không phải sự chống nghịch của các thiên sứ. Từ “loài người” được sử dụng 9 lần trong các c.1-7 xác định rõ rằng sự xét đoán sắp đến vì điều con người dã làm. “Và Đức Chúa Trời thấy rằng sự gian ác của loài người rất nhiều trên đất” (c.5).
Sự giới hạn 120 năm được bày tỏ trong c. 3 có lẽ chỉ về những năm cho đến thời Nước Lụt sẽ đến. Đức Chúa Trời đã nhẫn nhục với tội nhân hư mất, nhưng sẽ đến một thời điểm khi sự phán xét phải ập xuống. Suốt “thời đại ân điển đó, Nô-ê đã chuẩn bị chiếc tàu và bày tỏ chứng cớ rằng sự xét đoán sắp đến (2Phi-e-rơ 2:5), sứ điệp tương tự mà Hê-nóc đã trình bày suốt cuộc đời của ông (Giu-đe 1:14-15). Đức Chúa Trời đã ban sứ điệp của Ngài nơi miệng của hai chứng nhân, nhưng dân sự không muốn lắng nghe.
Từ “người cao lớn” trong Sáng Thế Ký 6:4 là môt cách dịch của từ Hê-bơ-rơ “nephilim” nghĩa là “những kẻ sa ngã”. Một số người theo “thuyết thiên sứ” của chương 6 biến “nephilim” thành những thiên sứ sa ngã có con cái trở thành những người lãnh đạo vĩ đại. Như chúng a đã thấy, nếu những “nephilim” này là các thiên sứ có thân xác con người, vậy họ hoặc đã sống sót qua Cơn Nước Lụt (vì các thám tử Hê-bơ-rơ đã thấy họ trong xứ Ca-na-an, Dân Số Ký 13:31-33), hoặc có một sự xâm lấn thứ hai của “các thiên sứ sa ngã” sau Cơn Nước Lụt. Cả hai ý niệm dường như đều không đáng tin.
Sự giải thích có lẽ đúng nhất về Sáng Thế Ký 6:4 là Đức Chúa Trời thấy dân sự thời bấy giờ là “những kẻ sa ngã”, trong khi con người thấy những người này như những lãnh đạo mạnh mẽ. Thậm chí ngày nay, nhiều điều được thế gian khâm phục thì bị Chúa khước từ (Lu-ca 16:15). Khi dân Sết thỏa hiệp bằng cách hòa đồng với dân Ca-in, họ đã sa ngã khỏi phước hạnh của Đức Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời buồn rầu khi họ cưới dân Ca-in bất kính, chọn những người vợ họ hài lòng mà không xem xét ý muốn Đức chúa Trời (Sáng Thế Ký 6:2;). Khi làm điều này, họ gây nguy hiểm cho sự hoàn thành lời hứa ở Sáng Thế Ký 3:15 vì làm sao Đức Chúa Trời có thể đem một Đấng Cứu Chuộc vào thế gian bởi một dân bất khiết? Dân thời đó “cưới gả” (Ma-thi-ơ 24:37-39) và không suy nghĩ gì đến lời cảnh cáo mà Hê-nóc và Nô-ê rao ra về sự xét đoán sắp đến. Lịch sử loài người giờ đây ở vị trí nơi mà chỉ Nô-ê và gia đình 8 người của ông, đã tin Đức Chúa Trời và vâng lời Ngài. Thần của Đức Chúa Trời đang cố gắng với những người hư mất, nhưng họ phản kháng sự kêu gọi của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời buồn rầu về điều con người đang làm.[58]
Hãy đọc Rô-ma 1:17 để có mộtsự mô tả về nền văn minh trong thời đó ra sao. sự gian ác của con người rất nhiều, mỗi sự tưởng tượng trong mọi suy nghĩ của con người liên tục chỉ là điều xấu, vì vậy không có gì ngạc nhiên khi Đức Chúa Trời quyết định giáng sự xét đoán.
Ân điển (Sáng Thế Ký 6:8). Cách duy nhất con người có thể được cứu khỏi cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời là bởi ân điển của Đức Chúa Trời (Ê-phê-sô 2:8-9), nhưng ân điển không phải là phần thưởng của Đức Chúa Trời cho một đời sống tốt lành: đó là đáp ứng của Đức Chúa Trời đối với đức tin cứu rỗi. “Bởi đức tin, Nô-ê được Chúa mách bảo cho về những việc chưa thấy, và người thành tâm kính sợ, đóng một chiếc tàu để cứu nhà mình” (Hê-bơ-rơ 1:7). Đức tin thật đòi hỏi toàn bộ con người bên trong: tâm trí hiểu sự cảnh cáo của Đức Chúa Trời, tấm lòng Nô-ê, những sợ hãi về điều sắp xảy đến và ý chí hành động trong sự vâng lời Đức Chúa Trời.
Hiểu chân lý của Đức Chúa Trời nhưng không hành động theo thì không phải là đức tin theo tinh thần Kinh Thánh, đó chỉ là sự tán thành về mặt tri thức đối với chân lý của tôn giáo. Bị kích động về mặt cảm xúc mà không hiểu sứ điệp của Đức Chúa Trời thì không phải là đức tin, vì đức tin thật dựa trên cơ sở của việc hiểu lẽ thật (Ma-thi-ơ 13:18-23). Có tâm trí được soi sáng và tấm lòng được khuấy động nhưng không hành động trong sự vâng phục sứ điệp thì không phải là đức tin, vì “đức tin không có việc làm thì chết” (Gia-cơ 2:14-26). Tâm trí, tấm lòng và ý chí đều cần phải có trong đức tin thích hợp với Kinh Thánh.
Bất cứ ai từng được cứu khỏi tội lỗi đều đã được cứu “bởi ân điển, nhờ đức tin”, và điều này kể đến những người đáng kinh thời Cựu Ước được liệt kê trong Hê-bơ-rơ 11:1-40. Không ai từng được cứu bằng cách đem đến một của lễ (Hê-bơ-rơ 10:1-4 Thi Thiên 51:16-17), bằng cách giữ Luật pháp (Ga-la-ti 2:16), hay bằng cách làm việc thiện (Rô-ma 4:5). Sự cứu rỗi là một món quà ân điển có thể bị khước từ hoặc được tiếp nhận bằng đức tin. Như Nô-ê, chúng ta đều phải “tìm thấy ân điển trước mặt Đức Giê-hô-va” (Sáng Thế Ký 6:8).
Sáng Thế Ký 6:1-8; xem giải nghĩa Sáng Thế Ký 5:12-27
7. ĐỨC TIN CỦA MỘT NGƯỜI – GIA ĐÌNH CỦA MỘT NGƯỜI (Sáng Thế Ký 6:9-7:24)
Ngoại trừ sự gia tăng về bạo lực và tội ác, các thời kỳ khá tốt đẹp. Người ta “ăn uống và cưới gả” (Ma-thi-ơ 24:38) và đời sống tiếp diễn như thường lệ. Khi những người bạn gặp mặt tại chợ hay ở những tiệc cưới, họ đã cười Nô-ê và gia đình ông (“Hãy tưởng tượng cái việc đóng chiếc tàu lớn ấy trên đất khô!”) hoặc bàn luận Mê-tu-sê-la, người già nhất thế gian (“Ông ta sẽ chết một trong những ngày này, hãy chú ý lời tôi!”, hay nói về Hê-nóc, người bất ngờ biến mất (“việc kỳ lạ nhất tôi từng nghe!”).
Mê-tu-sê-la là ông nội của Nô-ê, và Nô-ê biết rằng khi ông chết, không còn có gì cản trở sự phán xét của Đức Chúa Trời giáng trên một thế giới gian ác.Trong hơn một thế kỷ, Nô-ê đã cảnh cáo dân chúng về sự xét đoán sắp đến, nhưng chỉ có gia đình ông tin ông và tin cậy Chúa.
Sau đó Mê-tu-sê-la chết và mọi sự bắt đầu xảy ra. Một ngày kia, Nô-ê cùng gia đình ông vào “tàu” của họ và những cơn mưa đổ xuống. (Thiên hạ nói: “Mưa không thể tiếp tục mãi, nó sẽ tạnh một trong những ngày này”). Nhưng trời đã đổ mưa 40 ngày đêm, và những vụ nổ dưới lòng đất tuôn ra nhiều nước trên đất. Thậm chí sau khi mưa tạnh, nước vẫn tiếp tục dâng lên, và trong vòng 5 tháng, toàn bộ đất chìm ngập dưới nước và mọi loài có hơi thở đều chết. Tất cả đều chết ngoại trừ Nô-ê và gia đình ông, 8 người đã bị mọi người cười nhạo.
Nô-ê là loại người nào? Ông là loại người mà bạn và tôi cần phải trở thành và có thể trở thành khi chúng ta sống trong thế giới ngày nay.
1. Một người tin kính đồng đi với Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 6:9-13)
“Nhưng Nô-ê được ơn trước mặt Đức Giê-hô-va” (c.8) giới thiệu lời nhận định thứ 3 trong những nhận định về “dòng dõi” ở Sáng Thế ký, “Này là dòng dõi của Nô-ê (c.9). Nô-ê không phải là một nhân vật phụ trong câu chuyện về sự cứu chuộc. Ông được đề cập 50 lần trong 9 sách của Kinh Thánh.
Nô-ê là một người công bình (Sáng Thế Ký 6:9 Sáng Thế Ký 7:1). Đây là lần đầu tiên từ ‘công bình” được sử dụng trong Kinh Thánh, nhưng sự công bình của Nô-ê cũng được đề cập ở những chỗ khác (Ê-xê-chiên 14:14, 20 Hê-bơ-rơ 11:7 2Phi-e-rơ 2:5). Sự công bình của Nô-ê không đến từ việc thiện của ông. Việc thiện của ông đến bởi sự công bình của ông. Giống như Áp-ra-ham, sự công bình của ông là sự ban cho của Đức Chúa Trời để đáp ứng đức tin cá nhân của ông. Cả Áp-ra-ham và Nô-ê đều tin Lời Đức Chúa Trời và “điều đó được kể là công bình cho (họ)” (Sáng Thế Ký 15:6 Hê-bơ-rơ 11:7 Rô-ma 4:9 Ga-la-ti 3:1).
Sự công bình duy nhất Đức Chúa Trời sẽ chấp nhận là sự công bình của Chúa Giê-xu Christ, Con Ngài (2Cô-rinh-tô 5:21), và cách duy nhất con người có thể tiếp nhận sự công bình đó là bằng cách thừa nhận tội lỗi mình và tin Chúa Giê-xu Christ cứu rỗi mình (Rô-ma 3:19-30 Ga-la-ti 2:16). Nô-ê chắc đã học chân lý quan trọng này từ Lê-méc cha ông (Sáng Thế Ký 5:28-29), là người học điều đó từ Mê-tu-sê-la cha mình, người đã học điều đó từ cha là Hê-nóc. Quan trọng biết bao để dạy con cái và cháu chắt chúng ta cách tin cậy Chúa!
Nô-ê là một người không chỗ trách (Sáng Thế Ký 6:9). Nếu “công bình” mô tả địa vị của Nô-ê trước mặt Đức Chúa Trời, vậy “không chỗ trách” mô tả hạnh kiểm của ông trước con người. “Không chỗ trách” không có nghĩa là “không có tội”, vì không ai trừ Chúa Giê-xu từng sống một đời sống vô tội trên đời này (1Phi-e-rơ 2:21-22). Từ này nghĩa là “có sự chính trực, trọn vẹn, không vết nhơ”. Nó được sử dụng để mô tả thú vật có thể được Đức Chúa Trời chấp nhận làm của lễ (Xuất Ê-díp-tô 12:5 Lê-vi Ký 1:3, 10). Hạnh kiểm của Nô-ê là như thế đến nỗi những láng giềng của ông không thể tìm thấy lỗi lầm nơi ông (Phi-líp 2:12-16).
Người công bình trước mặt Đức Chúa Trời bởi đức tin nơi Đấng Christ phải dẫn đến một đời sống công bình trước mặt con người, vì “đức tin không có việc làm thì chết” (Gia-cơ 2:14). Phao-lô đã cảnh cáo về “những người hay nói ngỗ ngược và hư không cùng những người phỉnh dỗ… những kẻ xưng mình biết Đức Chúa Trời, nhưng trong việc làm thì họ từ chối Ngài” (Tit 1:10, 16), Nô-ê không phải là loại người đó.
Nô-ê là một người đồng đi với Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 6:9). Ông cố của ông là Hê-nóc đã “đồng đi với Đức Chúa Trời” rồi thình lình được cất lên trời và được cứu khỏi sự xét đoán sắp xảy đến bằng Cơn Nước Lụt (Sáng Thế Ký 5:24). Nô-ê đồng đi với Đức Chúa Trời và được đem an toàn qua sự xét đoán. Hê-nóc đã nêu gương một lối sống tin kính cho Mê-tu-sê-la chắc đã truyền lại điều đó cho Lê-méc con trai mình, là người đã chia sẻ điều đó với Nô-ê con trai ông. Kỳ diệu biết bao từ đời này đến đời khác một dòng dõi trung tín với Chúa, đặc biệt tại một thời điểm trong lịch sử khi bạo lực và sự đồi bại là lối sống bình thường.
Đời sống đức tin và sự vâng phục được ví sánh với “sự bước đi” vì đời sống này bắt đầu bằng một bước: tin nhận Chúa Giê-xu Christ là Chúa và Cứu Chúa. Bước đức tin này dẫn đến một sự bước đi hằng ngày, từng bước từng lúc, theo như Chúa hướng dẫn chúng ta. Ngài bảo chúng ta phải “bước đi trong sự yêu thương” (Ê-phê-sô 5:2), “bước đi như con cái sáng láng” (c.8), “bước đi trong Thánh Linh” (Ga-la-ti 5:16, 25) và “bước đi thận trọng (cẩn thận)” (Ê-phê-sô 5:15). Từng bước từng lúc, từng ngày từng giờ, chúng ta đồng đi với Chúa và Ngài hướng dẫn chúng ta vào trong ý muốn Ngài và chúc phước cho chúng ta bằng sự khôn ngoan và năng lực của Ngài.
Nô-ê là một người vâng phục (Sáng Thế Ký 6:22 Sáng Thế Ký 7:5, 16). Một trong những sứ điệp chính trong Kinh Thánh là chúng ta không nên chỉ nghe Lời Đức Chúa Trời nhưng chúng ta cũng phải vâng theo (Gia-cơ 1:22-25). Vì Nô-ê nghe Lời Chúa, “nhà” ông đã không bị hủy diệt khi cơn bão xảy đến (Ma-thi-ơ 7:24-27). Vâng lời Chúa không phải dễ dàng đối với Nô-ê và gia đình ông, vì cả dân còn lại đang bất tuân Chúa và chống lại ý muốn Ngài. Theo Hê-nóc, họ là dân bất kính phạm những việc bất kính bằng những cách bất kính và nói những lời bất kính nghịch với Giê-hô-va Đức Chúa Trời (Giu-đe 1:15).
Chẳng biết có liên hệ hay không với sự kiêng kỵ về tình dục, việc sử dụng rượu và ma tuý, hay việc gia nhập băng nhóm và phạm Luật pháp, chúng ta ngày nay nghe rất nhiều về “sức ép những người đồng lứa”. Đó là cái cớ cho mọi loại hành vi bất chính và vô đạo đức, từ việc lừa đảo về thuế thu nhập đến việc lừa đảo về người chồng hay người vợ của bạn. Nhưng bất cứ ai từng phát triển tính cách tin kính đều đã phải chống lại “sức ép những người đồng lứa”, kể đến Nô-ê và gia đình ông. Áp-ra-ham và gia đình ông, Mô-se ở Ai Cập (Hê-bơ-rơ 11:24-26) và Đa-ni-ên cùng các bạn ông ở Ba-by-lôn (Đa-ni-ên 1:1-21). Chống lại sức ép những người đồng lứa có nghĩa là không chỉ nói tiếng “không” dứt khoát với con người mà còn nói tiếng “vâng” tận tuỵ với Chúa (Rô-ma 12:1-2).
Đa số người biết rằng Nô-ê đã đóng một chiếc tàu. Điều họ có thể không biết đó là ông cũng xây dựng một tính cách tin kính và một gia đình tin kính. Nếu không vì gia đình tin kính của Nô-ê, Áp-ra ham sẽ không được sinh ra; và nếu không có Áp-ra-ham thì sẽ có môt dân tộc Do Thái, Kinh Thánh và Chúa Cứu Thế chăng?
2. Một người trung tín làm việc cho Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 6:14-22)
“Bí mật của Đức Giê-hô-va ở cùng người kính sợ Ngài, và Ngài sẽ tỏ cho họ giao ước Ngài” (Thi Thiên 25:14). Khi bạn bước đi với Đức Chúa Trời, Ngài phán với bạn qua Lời Ngài và cho bạn biết điều bạn cần biết và cần làm. Cơ Đốc nhân không chỉ là tôi tớ làm theo ý muốn Ngài, chúng ta cũng là bạn của Ngài những người biết kế hoạch của Ngài (Giăng 15:14-15). Kế hoạch của Đức Chúa Trời đòi hỏi ba trách nhiệm đối với Nô-ê và gia đình ông.
Đóng một chiếc tàu (Sáng Thế Ký 6:14-17). Đức Chúa Trời cho Nô-ê biết nhiệm vụ của ông là gì: đóng một chiếc thuyền lớn bằng gỗ có thể tồn tại qua Cơn Nước Lụt và giữ cho Nô-ê cùng gia đình ông an toàn. Nếu cubit là cubit tiêu chuẩn 18 inch, vậy chiếc tàu dài 4500 feet, rộng 75 feet và cao 45 feet. Tàu có 3 tầng, một cửa và một loạt cửa sổ nhỏ cao 18 inch ngay bên dưới mái vòm, cung cấp ánh sáng và sự thông gió. Ba tầng được chia thành những gian phòng, (Sáng Thế Ký 6:14) nơi giữ các thú vật và là nơi Nô-ê cùng gia đình ông sẽ sống”.
Chiếc tàu này được thiết kế để làm cho nổi lên chớ không phải để vận chuyển đi lại. Đó là một chiếc hộp gỗ khổng lồ có thể nổi trên mặt nước và giữ cho những vật bên trong được an toàn và khô ráo. Tấn sĩ Henry Morris tính toán rằng chiếc tàu lớn đủ để chứahơn 500 toa xe lửa chở súc vật, cung cấp chỗ cho khoảng 125. 000 con vật. Dĩ nhiên nhiều loài vật sẽ rất nhỏ và không cần nhiều chỗ, và khi có những súc vật lớn, Nô-ê chắc chắn chọn những con vật đại diện nhỏ tuổi hơn và bé hơn [59] Có nhiều chỗ trong tàu dành cho thức ăn của con người và thú vật (c.21), và côn trùng cùng những vật bò trườn sẽ không có vấn đề khi tìm chỗ để sống trên tàu.
Tin cậy giao ước của Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 6:18). Đây là lần sử dụng đầu tiên từ “giao ước” trong Kinh Thánh. Từ này thường xuất hiện trong Kinh Thánh vì ý niệm về giao ước là một phần quan trọng trong kế hoạch cứu chuộc vĩ đại của Đức Chúa Trời (Đức Chúa Trời sẽ giải thích giao ước của Ngài với Nô-ê sau khi ông rời chiếc tàu (Sáng Thế Ký 8:20-9:17). Giao ước là một sự thỏa thuận bao gồm những trách nhiệm và lợi ích cho các bên có liên quan. Trong một số giao ước, chỉ một mình Đức Chúa Trời là “bên giao ước” và tạo những lời hứa vô điều kiện cho dân sự của Ngài. Nhưng cũng có những giao ước đòi hỏi dân sự Ngài thực hiện những điều kiện nào đó trước khi Đức Chúa Trời có thể chúc phước cho họ.
Lời Đức Chúa Trời trong Sáng Thế Ký 6:13-21 được nói đặc biệt với Nô-ê, nhưng Đức Chúa Trời cũng kể đến gia đình Nô-ê trong giao ước (c.18). Nô-ê mãi đến 500 tuổi mới trở thành một người cha (Sáng Thế Ký 5:32), và ông bước vào tàu khi ông 600 tuổi (Sáng Thế Ký 7:6), vì vậy 3 con trai ông vẫn “trẻ” khi nói về thời kỳ tiền Nước Lụt. Cham là người trẻ tuổi nhất (Sáng Thế Ký 9:24) và Gia-phết lớn nhất (Sáng Thế Ký 10:21), cả 3 con trai đều lập gia đình (Sáng Thế Ký 7:13). [60]
Việc Đức Chúa Trời đã lập giao ước để chăm sóc Nô-ê và gia đình ông, cho họ sự bình an và sự tin quyết họ cần khi chuẩn bị chiếc tàu và sau đó sống trong tàu hơn một năm. Đức Chúa Trời thành tín giữ những lời hứa của Ngài, và với tư cách dân giao ước của Đức Chúa Trời, 8 người tin kính không có gì để sợ.
Tập trung thú vật (Sáng Thế Ký 6:19-22). Đức Chúa Trời không chỉ muốn loài người được duy trì từ sự hủy diệt nhưng cũng muốn mọi sinh vật không bị chìm đắm bởi Nước Lụt.Nhưng làm sao Nô-ê tập trung một số lượng lớn thú vật, chim và những con vật bò trườn như thế? Đức Chúa Trời sẽ khiến những sinh vật này đến cùng Nô-ê (c.20 Sáng Thế Ký 7:8, 15) và Nô-ê sẽ đem chúng vào tàu (Sáng Thế Ký 6:19). Điều này không chỉ kể đến các cặp thú vật không tinh sạch mà sẽ có thể sinh sản sau Cơn Nước Lụt, mà bảy cặp thú vật tinh sạch cũng được kể đến, một số sẽ được dùng làm của lễ (Sáng Thế Ký 8:20 Sáng Thế Ký 9:3). Nô-ê và gia đình ông không chỉ học về sự thành tín của Đức Chúa Trời họ cũng thấy quyền tối cao của Đức Chúa Trời trong hành động.
Trong quyền năng tối cao của Đức Chúa Trời, Ngài đem các thú vật đến với Nô-ê cùng với các con trai ông và điều khiển chúng để chúng làm theo mệnh lệnh của Ngài. Tuy nhiên, sự bày tỏ đẹp đẽ này về quyền năng của Đức Chúa Trời đã không đụng đến tấm lòng những người láng giềng của ông, và họ đã bỏ mạng trong Cơn Nước Lụt. Loài chim loài thú và các vật bò trườn biết tiếng của Đấng Sáng Tạo và vâng lời Ngài, nhưng những người được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời đã từ chối chú ý sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Những thế kỷ sau, Đức Chúa Trời sẽ nói qua Ê-sai tôi tớ Ngài, “Bò biết chủ mình, lừa biết máng của chủ, song Y-sơ-ra-ên chẳng hiểu biết dân ta chẳng suy nghĩ” (Ê-sai 1:5).
Trong tất cả hành động quan trọng này. Nô-ê đang hầu việc Chúa và làm chứng cho một thế giới tội lỗi. Trong 120 năm (Sáng Thế Ký 6:3), Đức Chúa Trời đã nhẫn nhục với tội nhân vô tâm và chống nghịch, nhưng họ đã không chú ý sứ điệp của Ngài và đánh mất cơ hội của mình về sự cứu rỗi.
3. Một người yên tâm chờ đợi Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 7:1-24)
Đức Chúa Trời đã khuyên dạy trong Thi Thiên 32:9 “chớ như con ngựa hoặc con la”, và Nô-ê vâng theo lời khuyên đó, con ngựa đôi khi muốn lao tới một cách mãnh liệt, còn con la muốn lê chân và bướng bỉnh đứng lại, nhưng Nô-ê bước đi với Đức Chúa Trời và làm việc cho Đức Chúa Trời, để Đức Chúa Trời sắp xếp thời gian biểu.
Một tuần chờ đợi (Sáng Thế Ký 7:1-10). Từ khi mưa bắt đầu vào ngày 17 tháng 2 (Sáng Thế Ký 7:11), vào ngày 10/2 Nô-ê và gia đình ông đã vào tàu theo chỉ dẫn của Đức Chúa Trời (c.1). Suốt tuần lễ cuối cùng đó trước Cơn Nước Lụt, họ đã xong việc tập trung các thú vật và đem theo lương thực cho chúng. Họ làm theo chỉ dẫn của Chúa, tin lời hứa giao ước của Ngài, và biết rằng không có gì để sợ hãi.
Đa-vít một ngày kia quan sát một cơn bão có sấm sét và viết ra một bài ca ngợi từ kinh nghiệm đó (Thi Thiên 29:1-11) cho biết ông đã thấy và nghe Đức Chúa Trời thể nào trong cơn bão đó. Khi ông suy gẫm điều xảy ra, Đa-vít nghĩ về cơn bão nổi tiếng nhất của lịch sử trong thời Nô-ê, và ông viết: “Đức Giê-hô-va ngự tại Cơn Nước Lụt, và Đức Giê-hô-va ngự ngôi Vua đời đời” (Sáng Thế Ký 29:10 NKJV). Cơn mưa quét sạch, sấm sét vang dội và tia chớp loé sáng nhắc nhở Đa-vít về quyền tối cao của Đức Chúa Trời. Dù những cơn bão của đời sống có thể lớn ra sao, Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngôi khiến cho mọi sự hiệp lại vì ích lợi. Đó là lý do Đa-vít kết thúc bài ca ngợi bằng cách “Đức Giê-hô-va sẽ ban sức mạnh cho dân sự Ngài, Đức Giê-hô-va sẽ chúc phước cho dân sự Ngài bằng sự bình an” (c.11 NKJV).
Vào cuối tuần lễ chuẩn bị cuối cùng đó, Nô-ê cùng gia đình ông vâng theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời và vào tàu, rồi Đức Chúa Trời đóng cửa tàu và khiến nó an toàn (Sáng Thế Ký 7:16). Họ không biết họ sẽ sống trong tàu bao lâu, nhưng Chúa biết và tất cả điều đó thật sự quan trọng. “Kỳ hạn tôi ở trong tay Chúa” (Thi Thiên 31:15 NKJV). Một năm 10 ngày trôi qua, chính Đức Chúa Trời đã mở cửa và mời họ bước ra để sống trên đất của Ngài đã được tẩy thanh mới mẻ (Sáng Thế Ký 8:16).
Ngày tính sổ (Sáng Thế Ký 7:11-24). Cơn Nước Lụt là sự xét đoán của Đức Chúa Trời đối với một thế giới gian ác. Đức Chúa Trời đã mở những đập trên trời để những cơn mưa như trút nước đổ xuống, và “mọi nguồn của vực lớn nổ ra” (c.11), vì vậy ngay cả những ngọn núi cao nhất cũng bị ngập nước (c.20). Đức Chúa Trời đã chờ đợi hơn một thế kỷ để tội nhân ăn năn, và giờ đây đã quá trễ. “Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi Ngài có thể gặp được, hãy kêu cầu Ngài trong khi Ngài ở gần” (Ê-sai 55:6).
Mưa đã tạnh sau 40 ngày, tức là vào ngày 27 tháng 3 (Sáng Thế Ký 7:12). Tuy nhiên, nước tiếp tục dâng lên 110 ngày nữa và đạt đến cao điểm của nó sau 150 ngày (c.24). Vào lúc đó, chiếc tàu tấp trên ngọn núi A-ra-rát (Sáng Thế Ký 8:4).Phải mất 150 ngày để nước rút xuống (c.3), đưa chúng ta đến ngày 17 tháng 12. Hai tháng 10 ngày sau đó, Nô-ê cùng gia đình ông rời khỏi tàu và thả các thú vật được tự do (c. 14) Từ ngày Đức Chúa Trời đóng cửa tàu, họ đã ở trong tàu 1 năm 10 ngày.
Một sự xét đoán toàn thế giới. Trong những năm gần đây, những người muốn làm cho Kinh Thánh thích hợp với những quan điểm của khoa học hiện đại nên đã lựa chọn một Cơn Nước Lụt nào đó “có giới hạn” chớ không mang tính toàn cầu. Họ gợi ý rằng người viết Sáng Thế ký đã sử dụng “ngôn ngữ bề ngoài” và chỉ mô tả điều ông có thể thấy.
Có những vấn đề đối với cả hai quan điểm, nhưng sự giải thích “có giới hạn” dường như yếu hơn [61] Ngôn ngữ rõ ràng của bản văn dường như xác định rằng Đức Chúa Trời đang đem đến một sự xét đoán toàn thế giới, Đức Chúa Trời phán Ngài sẽ hủy diệt loài người và loài vật “khỏi mặt đất” (Sáng Thế Ký 6:7) [62], và “mọi loài sống” sẽ bị hủy diệt (Sáng Thế Ký 7:4, 21, 23 Sáng Thế Ký 8:21). Nếu các ngọn núi bị ngập đến một độ cao như thế đến nỗi chiếc tàu có thể nổi trên dãy núi A-ra-rát và cuối cùng nằm trên đỉnh, vậy toàn bộ hành tinh phải bị chìm đắm hoàn toàn (Sáng Thế Ký 7:18-20).Người đọc Sáng Thế Ký 6:1-9:29 lần đầu tiên sẽ kết luận rằng Cơn Nước Lụt mang tính toàn cầu.
Nhưng nếu Cơn Nước Lụt không mang tính toàn cầu thì tại sao Đức Chúa Trời ban cái cầu vồng làm một dấu hiệu toàn cầu của giao ước Ngài? (Sáng Thế Ký 9:11-15). Tại sao người trong một địa phương sẽ cần một dấu hiệu như thế? Hơn nữa, nếu Cơn Nước Lụt là một sự kiện cục bộ thì tại sao Đức Chúa Trời bảo Nô-ê đóng một chiếc tàu lớn như thế để cứu gia đình ông và các loài vật? Nô-ê chắc chắn có đủ thời gian để tập trung gia đình ông cùng các loài vật trong vùng đó và dẫn họ đến một nơi mà Cơn Nước Lụt sẽ không đến. [63]
Đức Chúa Trời đã hứa rằng Ngài sẽ không bao giờ giáng Cơn Nước Lụt nào khác giống như Cơn Nước Lụt Ngài đã giáng trong thời Nô-ê (c.8-17). Nhưng nếu Cơn Nước Lụt chỉ là một sự kiện cục bộ, Đức Chúa Trời đã không giữ lời hứa Ngài! Bao thế kỷ qua, đã có vô số cơn lụt địa phương, một số cơn lụt đem đến tử vong và sự tàn phá cho các vùng địa phương. Chỉ trong năm 1996, cơn lụt lớn ở Afganistan trong tháng 4 đã khiến 3. 000 người mất nhà ở, và trong tháng 7, cơn lụt ở miền Bắc Bangladesh đã hủy diệt các nhà cửa của trên 2 triệu người. Trong tháng 7 và tháng 8, những con sông Yellow, Yangtze và Hai đã làm ngập lụt 9 tỉnh ở Trung Quốc và khiến 2. 000 người chết. Nếu Cơn Nước Lụt thời Nô-ê là một sự kiện mang tính địa phương, thì lời hứa và dấu hiệu giao ước về cái cầu vồng của Đức Chúa Trời chẳng có ý nghĩa gì cả.
Việc đọc bản văn một cách đơn giản khiến chúng ta tin rằng Cơn Nước Lụt là một sự xét đoán toàn thế giới vì “Hết thảy xác thịt làm bại hoại đường lối Ngài (Đức Chúa Trời) trên đất” (Sáng Thế Ký 6:12). Chúng ta không biết nền văn minh đã lan ra trên hành tinh chúng ta mức độ nào, nhưng bất cứ nơi đâu con người đi đến, đều có tội lỗi đáng phải bị xét đoán, Cơn Nước Lụt làm chứng cho tội lỗi cả thế gian và sự xét đoán toàn thế giới.
Chúa Giê-xu và Phi-e-rơ đã sử dụng Cơn Nước Lụt để minh hoạ những sự kiện tương lai sẽ liên quan đến cả thế giới: sự tái lâm của Đấng Christ (Ma-thi-ơ 14:37-39 Lu-ca 17:26-27) và sự đoán xét toàn thế giới bằng lửa (2Phi-e-rơ 3:3-7). Nếu Cơn Nước Lụt chỉ mang tính địa phương, thì những điều tương tự này là giả dối và lầm lạc. Phi-e-rơ cũng viết rằng Đức Chúa Trời đã không tha cho “thế giới ngày xưa” (NKJV) khi Ngài giáng Cơn Nước Lụt, ngụ ý nhiều địa phận hơn là một vùng giới hạn.
Một gia đình kiên nhẫn. Mặc cho sự tàn phá bên ngoài, Nô-ê với gia đình ông và các loài vật được an toàn bên trong chiếc tàu. Dù họ cảm thấy thế nào, hay chiếc tàu tròng trành trên mặt nước ra sao, họ vẫn an toàn trong ý muốn của Đức Chúa Trời. Họ đã kiên nhẫn chờ đợi Đức Chúa Trời hoàn thành công việc Ngài và đặt họ trở lại trên đất. Nô-ê cùng gia đình ông đã trải qua một năm 17 ngày trong tàu, và dù họ có công việc hằng ngày để làm, đó là một thời gian dài để ở trong một chỗ. Nhưng “bởi đức tin và lòng nhịn nhục” mà chúng ta hưởng những phước hạnh Đức Chúa Trời hứa ban (Hê-bơ-rơ 6:12 Hê-bơ-rơ 10:36), và Nô-ê đã sắm sẵn chờ đợi Chúa.
Phi-e-rơ nhìn thấy trong từng trải của Nô-ê một bức tranh về sự cứu rỗi bởi đức tin nơi Chúa Gê-xu Christ (1Phi-e-rơ 3:18-22). Đất trong thời Nô-ê đã bị chìm ngập trong nước, nhưng chiếc tàu nổi trên mặt nước và đưa Nô-ê cùng gia đình ông đến nơi an toàn . [64] Đối với Phi-e-rơ, đây là 12 hình ảnh về báp-tem: chết, chôn và sống lại. Đất đã “chết” và “chôn” vì nước, nhưng chiếc tàu nổi lên (“sự sống lại”) để giúp gia đình này vượt qua an toàn. Chúa Giê-xu đã chết, được chôn và sống lại; và bởi công việc được hoàn tất của Ngài, chúng ta có sự cứu rỗi thoát khỏi tội lỗi. Phi-e-rơ cho biết rõ rằng nước của lễ báp-tem không tẩy sạch tội lỗi. Chính sự vâng phục của chúng ta đối với mệnh lệnh của Đức Chúa Trời để chịu báp-tem (Ma-thi-ơ 28:19-20) làm sạch lương tâm hầu cho chúng ta được công bình trước mặt Đức Chúa Trời. Nhà giải kinh người Anh Alexander Maclaren đã nói.
Trong 120 năm, những kẻ dí dỏm đã cười nhạo, và những người có “ý thức thông thường”đã ngạc nhiên, còn vị thánh đồ kiên nhẫn tiếp tục việc đóng và dựng con tàu của ông. Nhưng một buổi sáng nọ, trời bắt đầu mưa, và bằng cách nào đó, theo những mức độ, Nô-ê hoàn toàn không có vẻ là một người dại dột. Những lời chế nhạo sẽ có vẻ khác đi nhiều khi nước dâng lên đến đầu gối của những kẻ chế nhạo, những lời mỉa mai, sẽ dính nơi cổ họng của họ khi họ chết đuối.
Điều đó luôn như vậy, vì thế điều đó sẽ xảy ra vào ngày trọng đại cuối cùng. Những người đã sống cho tương lai, bởi đức tin nơi Đấng Christ, sẽ được nhận thấy là người khôn ngoan khi tương lai trở thành hiện tại, và hiện tại trở thành quá khứ, và đi qua mãi mãi, trong khi những kẻ không có mục đích gì ngoài những vật chất của đời, giờ đây bị chìm đắm dưới chân trời tối tăm, sẽ thức tỉnh quá trễ để tin rằng mình ở ngoài chiếc tàu của sự an toàn, và văn bia thật nhất của họ là “Ngươi-kẻ ngu dại”. [65]
8. ĐỨC CHÚA TRỜI CỦA NHỮNG KHỞI ĐẦU MỚI (Sáng Thế Ký 8:1-22)
Khi các tín hữu khao khát nghiên cứu Kinh Thánh để tìm đọc điều gì đó gây khích lệ, dường như họ thích mở Rô-ma 8:1-39 hơn là Sáng Thế Ký 8:1-22. Xét cho cùng, Rô-ma 8:1-39 là một trong những chương động viên nhất ở Kinh Thánh, trong lúc Sáng Thế Ký 8:1-22 mô tả hoạt động “quét sạch” của Đức Chúa Trời sau Cơn Nước Lụt.
Nhưng lần sau bạn thấy chính mình trong một cơn bão, thì Sáng Thế Ký 8:1-22 có thể cho bạn hy vọng và sự khích lệ mới mẻ. Vì chủ đề chính của chương này là sự đổi mới và sự yên nghỉ sau hoạn nạn. Chương này ghi lại kết thúc của cơn bão, khởi đầu của một đời sống mới cho hy vọng cho dân sự Đức Chúa Trời và sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Chỉ hãy xem xét điều Đức Chúa Trời làm trong Sáng Thế Ký 8:1-22 và can đảm!
1. Đức Chúa Trời nhớ đến những người thuộc về Ngài (Sáng Thế Ký 8:1a)
Khi bạn trải qua một cơn bão, thật dễ cảm thấy mình bị bỏ rơi. Một tín hữu Hội Thánh mà tôi thăm viếng trong bệnh viện đã nói: “Tôi nghĩ Chúa đã quên tôi”. Trong tâm trí bà, bà có thể nhớ lại Hê-bơ-rơ 13:5 và trích dẫn nó (“Ta sẽ chẳng bao giờ lìa ngươi hay bỏ ngươi” (NKJV), nhưng trong lòng, bà cảm thấy cô đơn và bị bỏ rơi. Đức Chúa Trời của bà ở đâu? Cơn bão khi nào sẽ chấm dứt?
Cảm thấy bị bỏ rơi là cảm xúc bình thường của con người mà đa số chúng ta đã trải qua, dù chúng ta có thừa nhận hay không. Tác giả Thi Thiên đã hỏi: “Đức Giê-hô-va ôi, vì cớ gì Ngài đứng xa? Lúc gian truân tại sao Ngài ẩn mặt đi?” (Thi Thiên 10:1). Phao-lô thú nhận rằng những hoạn nạn của ông ở xứ A-si quá khắc nghiệt đến nỗi ông hầu như mất sự sống (2Cô-rinh-tô 1:8), và Chúa Giê-xu, Đấng trải qua mọi thử thách của con người, đã kêu lên tại thập tự giá. “Đức Chúa Trời tôi ơi, Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Ma-thi-ơ 27:46). Cảm thấy cô độc là điều không có gì mới đối với dân sự Đức Chúa Trời, nhưng khi ấy họ nhớ lại bài hát:
Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngôi,
Và Ngài sẽ nhớ đến những người thuộc về Ngài!
Từ “nhớ” trong Sáng Thế Ký 8:1 không có nghĩa là nhắc nhở điều gì đó có thể đã bị quên. Đức Chúa Trời không thể quên bất cứ điều gì, vì Ngài biết kết cuộc từ lúc khởi đầu. Đúng hơn, nó có nghĩa là “chú ý đến, thưc hiện một lời hứa và hành động vì cớ ai đó”. Ví dụ, lời hứa của Đức Chúa Trời, “Ta sẽ chẳng còn nhớ đến tội lỗi gian ác của chúng” (Hê-bơ-rơ 14:17) có nghĩa là Đức Chúa Trời không cần giữ tội của chúng ta và đối xử chúng ta như tội nhân. Chắc chắn Đức Chúa Trời biết điều chúng ta đã làm, nhưng vì đức tin của chúng ta nơi Chúa Giê-xu Christ, tội lỗi chúng ta “bị quên”. Đức Chúa Trời đối xử với chúng ta như thể tội lỗi của chúng ta chưa bao giờ phạm! Chúa không còn nhớ đến chúng nữa.
Nhớ đến nghĩa là hành động vì cớ người khác. Đức Chúa Trời nhớ đến Áp-ra-ham và cứu Lót khỏi sự hủy diệt trong thành Sô-đôm (Sáng Thế Ký 19:29). Chúa nhớ đến Ra-chên cùng An-ne và khiến họ có thể thụ thai và sanh những đứa con trai (Sáng Thế Ký 30:22 1Sa-mu-ên 1:11, 19). Chúa nói đến giao ước Ngài và giải cứu dân Do Thái khỏi ách nô lệ ở Ai Cập (Xuất Ê-díp-tô 2:24 Xuất Ê-díp-tô 6:5). “Nhớ” ngụ ý về một lời hứa trước đó do Đức Chúa Trời lập và tuyên bố sự hoàn thành lời hứa đó. [66] Nô-ê, gia đình ông và các loài vật đã cùng ở trong tàu hơn một năm, một “sự sống với nhau” khá nhiều. Họ đã mất kiên nhẫn với nhau hoặc với các loài vật chăng? Không có ghi chép nào cho thấy Đức Chúa Trời đã nói gì với họ sau khi Ngài đóng cửa trời, vì vậy có thể một vài người trong gia đình trải qua một sự sợ hãi đôi lúc thoáng qua rằng có thể Đức Chúa Trời đã không quan tâm đến họ nữa.
Đức Chúa Trời không chỉ nhớ đến Nô-ê và gia đình ông, Ngài cũng nhớ đến các loài vật ở cùng họ trong tàu [67] Đức Chúa Trời đã giữ lại những sinh vật này để chúng có thể sống trên đất được đổi mới và sinh sản tùy theo loại. Đó là ước muốn của Ngài để các tạo vật của Ngài vui hưởng đất và góp phần vào hạnh phúc của những con người Ngài đã tạo nên theo hình ảnh Ngài. Như chúng ta sẽ thấy sau đó, các loài vật được bao gồm trong giao ước của Đức Chúa Trời với Nô-ê.
Chúng ta có thể chắc rằng Đức Chúa Trời không bao giờ quên hay từ bỏ dân sự Ngài, không chỉ vì những lời hứa của Ngài, mà còn vì tính cách của Ngài [68] Đức Chúa Trời là tình yêu và nơi đâu có tình yêu, nơi đó có sự thành tín. Ngài không bao giờ có thể phủ nhận chính Ngài hay Lời Ngài, vì Ngài là Đức Chúa Trời thành tín, và Ngài không bao giờ có thể thay đổi, vì Ngài không thể thay đổi. Vì Ngài là toàn vẹn, Đức Chúa Trời không thể thay đổi để trở nên tồi tệ hơn. Chúng ta có thể nhờ cậy nơi Ngài cho dù hoàn cảnh chúng ta thế nào hay chúng ta cảm thấy ra sao.
2. Đức Chúa Trời đổi mới thế giới của Ngài (Sáng Thế Ký 8:1b-14)
Theo Sáng Thế Ký 7:24 Cơn Nước Lụt đạt đến đỉnh cao của nó trong 150 ngày. Cơn mưa như thác và sự dâng trào nước từ dưới đất đều đã chấm dứt (Sáng Thế Ký 8:2 xem NIV và NASB), Và trong 5 tháng kế tiếp, Đức Chúa Trời khiến cho nước rút xuống và để lại đất khô.
Nước Lụt đã đi đâu? Đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của nước di chuyển! Có thể Nước Lụt đã thay đổi nhiều những đường nét của đất và tạo ra những vùng mới để nước choán chỗ, cả trên bề mặt trái đất và dưới đất [69] Vì có những sự phun trào từ dưới đất (Sáng Thế Ký 7:11), toàn bộ các lục địa và các dãy núi có thể đã trồi lên và sụp xuống, tạo nên sẽ khu vực lớn mà nước có thể tràn vào.Những cơn gió Đức Chúa Trời đã cho thổi trên đất giúp làm bay hơi nước và cũng di chuyển nước đến những nơi Đức Chúa Trời đã quy định. Một Đức Chúa Trời đủ quyền năng để che phủ đất bằng nước, cũng đủ khôn ngoan để biết cách giải quyết nước khi công việc của nó đã được hoàn tất.
Những thế kỷ sau, cơn gió của Đức Chúa Trời sẽ đem cào cào vào Ê-díp-tô và sau đó đuổi chúng xuống Biển đỏ, và tạo một con đường khô ráo cho dân Y-sơ-ra-ên khi họ rời Ê-díp-tô (Sáng Thế Ký 14:21-22 Sáng Thế Ký 15:10). Cơn gió bão thực hiện Lời Đức Chúa Trời (Thi Thiên 148:8).
Vào ngày 17 tháng 7, chiếc tàu tấp trên một đỉnh của dãy núi A-ra-rát, ở vị trí Thổ Nhĩ kỳ ngày nay. Chúng ta không biết đó là đỉnh núi nào, những nhà thám hiểm tìm kiếm những phần còn lại của chiếc tàu không thể tìm thấy nhiều dữ kiện Kinh Thánh để giúp họ. Trong những năm sau đó, tháng 7 rất đặc biệt đối với dân Do Thái, vì suốt tháng đó họ bước vào năm mới với lễ Kèn và dự lễ Chuộc Tội cùng lễ Lều Tạm (Lê-vi Ký 23:23-44). [70]
Bản văn Hê-bơ-rơ nói rằng “chiếc tàu yên nghỉ, nhắc nhở chúng ta rằng tên của Nô-ê nghĩa là “sự yên nghỉ” và Lê-méc cha ông hy vọng rằng con trai mình sẽ đem đến sự yên nghỉ cho một thế giới mệt mỏi (Sáng Thế Ký 5:28-29).Dù chiếc tàu đã yên nghỉ an toàn, Nô-ê đang chờ đợi Chúa bảo ông điều phải làm.Ông đã chờ đợi 40 ngày và sau đó thả con quạ ra, là một loài chim ô uế ăn xác chết (Lê-vi Ký 11:13-15), nó cảm thấy dễ chịu giữa vòng những xác chết trôi nổi.
Nô-ê đã đợi một tuần và sau đó thả một con bồ câu ra, là một loài chim tinh sạch, nó không tìm thấy nơi nào để đáp xuống, vì vậy nó trở lại tàu (Sáng Thế Ký 8:8-9). Một tuần lễ sau, Nô-ê biết rằng thực vật đang mọc lên và sự sống mới đã xuất hiện trên đất (c.10-11). Con bồ câu mang một nhánh ô-li-ve là dấu hiệu quen thuộc về sự bình an khắp thế giới. Một tuần sau, khi Nô-ê thả bồ câu lần thứ 3, nó không trở về, vì vậy ông biết nước đã khô cạn. [71]
Nô-ê đã làm một “cửa sổ” ở tầng dưới của chiếc tàu (c.6 NIV viết “cái nắp”) và ông mở cửa sổ này ra để ông có thể quan sát thế giới quanh mình. Việc này xảy ra vào ngày các hành khách đã ở trong tàu trọn một năm. Nô-ê thấy rằng đất thật sự đã khô, nhưng ông không ra khỏi tàu cho đến khi Chúa bảo ông rời tàu. Hai mươi sáu ngày sau, mệnh lệnh đó truyền đến và ông vâng lời (c.15).
3. Đức Chúa Trời ban thưởng cho đức tin (Sáng Thế Ký 8:15-19)
Nô-ê là một người có đức tin mà tên ông được ghi lại trong Hê-bơ-rơ 11:1-40 cùng với tên của những anh hùng đức tin khác (c.7). Ông có đức tin để đồng đi với Đức Chúa Trời khi người thế gian phớt lờ và bất tuân Đức Chúa Trời. Ông có đức tin để làm việc cho Đức Chúa Trời và làm chứng cho Đức Chúa Trời khi sự chống đối chân lý là điều phổ biến. Giờ đây Cơn Nước Lụt đã qua, ông vận dụng đức tin để chờ đợi Đức Chúa Trời trước khi rời khỏi tàu.
Sau khi bị giữ trong tàu hơn một năm, ông và gia đình ông chắc đã ao ước trở lại trên đất khô: nhưng họ chờ đợi những chỉ dẫn của Đức Chúa Trời. Những hoàn cảnh trên đất có vẻ thích hợp cho sự lên bờ của họ, nhưng đó không phải là sự bảo đảm rằng Đức Chúa Trời muốn họ ra ngay và bắt đầu đời sống mới của họ. Đức tin vâng phục là đáp ứng của chúng ta đối với Lời Đức Chúa Trời, vì “đức tin đến bởi sự nghe, và sự nghe đến bởi Lời Đức Chúa Trời” (Rô-ma 10:17 NKJV).
Phải chăng Nô-ê đang bày tỏ sự vô tín khi ông thả các loài chim và mở cửa hầm để nhìn địa thế? Không ông chỉ sử dụng những cơ hội có sẵn để thu thập dữ kiện. Không có gì sai khi có một sự hiểu biết về hoàn cảnh, chỉ đừng cậy nơi sự thông hiểu của riêng bạn (Châm Ngôn 3:5-6). Vâng theo ý muốn Đức Chúa Trời không chỉ đòi hỏi làm điều đúng trong cách đúng vì động cơ đúng, nhưng nó cũng có nghĩa là làm điều đó đúng lúc “Kỳ hạn tôi ở trong tay Chúa” (Thi Thiên 31:15 NKJV).
Đức Chúa Trời đã ban thưởng cho đức tin của Nô-ê, và đức tin của gia đình ông, bằng cách chăm sóc họ trong tàu hơn một năm và sau đó chuẩn bị đất cho họ để họ có thể rời tàu. Nô-ê giống một “A-đam thứ 2” khi ông thực hiện khởi đầu mới này cho dòng dõi loài người. Đức Chúa Trời đã đem đất ra khỏi nước suốt tuần lễ sáng tạo, chuẩn bị đất cho A-đam cùng Ê-va. Và giờ đây Ngài đã đem đất vượt qua Cơn Nước Lụt và chuẩn bị nó sẵn sàng cho Nô-ê cùng gia đình ông. Chúa còn ban cho gia đình Nô-ê và các loài vật mệnh lệnh tương tự mà Ngài đã ban từ buổi đầu: “Hãy sanh sản và thêm nhiều” (Sáng Thế Ký 8:17 Sáng Thế Ký 1:22, 28).
Nô-ê đã chuẩn bị chiếc tàu “để cứu nhà mình” (Hê-bơ-rơ 11:7), và Đức Chúa Trời thành tín đã cứu gia đình của ông. Không có biểu hiện nào trong Kinh Thánh cho thấy Nô-ê bằng sự làm chứng của mình đã mời những người khác gia nhập với ông và gia đình ông trong tàu, nhưng chắc chắn ông hẳn đã khích lệ họ tin cậy Đức Chúa Trời và chuẩn bị chếc tàu cho chính họ. Dĩ nhiên, không ai xem trong sứ điệp của ông, và thế giới thời bấy giờ đã hủy diệt (2Phi-e-rơ 3:6).
Điều gì đã khiến cư dân chối bỏ Lời Đức Chúa Trời và bị hư mất? Họ giống như những người trong câu chuyện của Chúa chúng ta (Lu-ca 14:16-24), bận rộn với những việc bình thường của đời sống hằng ngày (Ma-thi-ơ 24:37-39) và không quan tâm đến cõi đời đỡi. Họ tin rằng đời sống sẽ tiếp diễn và luôn như vậy, và không có gì sẽ thay đổi. Họ nói rằng Đức Chúa Trời sẽ không xâm lấn thế giới hoặc ngăn trở kế hoạch của mọi việc, nhưng Ngài đã làm! Con người ngày nay có thái độ tương tự đối với sự tái lâm của Chúa (2Phi-e-rơ 3:1-9 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:1-10).
Khi nói về đức tin cứu rỗi, mỗi người chúng ta phải tin nhận Chúa Giê-xu Christ cách cá nhân, chúng ta không thể được cứu bởi đức tin của một người thay thế. Vợ của Nô-ê, ba con trai của họ và ba con dâu của họ cũng là những tín hữu, và họ chứng tỏ điều đó bằng cách đứng cùng với Nô-ê trong khi ông làm việc và làm chứng, và sau đó bằng cách vào tàu trong sự vâng lời Chúa. [72]
4. Đức Chúa Trời tiếp nhận sự thờ phượng (Sáng Thế Ký 8:20)
Sau khi bước ra khỏi tàu và đứng trên đất mới, Nô-ê đầy lòng biết ơn đến nỗi hành động đầu tiên của ông là hướng dẫn gia đình ông trong sự thờ phượng. Ông xây một bàn thờ và dâng một số loài vật tinh sạch làm của lễ cho Chúa.
Nô-ê là một tín hữu quân bình. Ông bước đi với Chúa trong sự giao thông đầy yêu thương và vui hưởng sự hiện diện của Ngài. Ông làm việc cho Chúa trong sự đóng tàu, và ông làm chứng cho Chúa như “thầy giảng đạo công bình” (2Phi-e-rơ 2:5). Lúc ở trong tàu, ông chờ đợi Chúa để có những chỉ dẫn về việc ông rời tàu, và một khi ông đứng trên đất, ông thờ phượng Chúa. Giống như A-bên ông đem cho Đức Chúa Trời vật tốt nhất của ông (Sáng Thế Ký 4:4) và giống như những người dòng Sết còn sót lại, ông kêu cầu danh Chúa (Sáng Thế Ký 4:26). Sự thờ phượng Chúa thật đã được phục hồi trên đất.
Trong thời Cựu Ước, khi bạn dâng của lễ thiêu, bạn dâng toàn bộ con thú hay loài chim cho Chúa mà không giữ lại gì cả (Lê-vi Ký 1:1-17).“Tất cả trên bàn thờ” (c.9) là luật của Kinh Thánh, vì của lễ tượng trưng cho sự dâng mình hoàn toàn cho Chúa [73] Trong một bước mới của sự phó thác, Nô-ê dâng chính mình và gia đình” ông hoàn toàn cho Chúa. Đức Chúa Trời nhân từ bảo vệ họ và đưa họ vượt qua cơn bão, vì vậy chỉ thật thích hợp để họ khiến mình sẵn sàng cho Chúa để làm theo ý muốn Ngài.
Sự mô tả về việc Đức Chúa Trời “ngửi mùi thơm” (Sáng Thế Ký 8:21 KV) là một cách của con người nói lên một chân lý thiên thượng: Đức Chúa Trời hài lòng với của lễ, chấp nhận nó, và hài lòng với dân sự Ngài cùng sự thờ phượng của họ (Lê-vi Ký 1:9 Lê-vi Ký 3:16). Nếu Đức Chúa Trời từ chối “ngửi” mùi thơm của lễ, điều đó có nghĩa là Ngài không đẹp lòng với những người thờ phượng (Lê-vi Ký 26:31 Ê-sai 1:11-15) [74]Trong ngôn ngữ Tân Ước, của lễ nói về Chúa Giê-xu Christ dâng chính Ngài vì chúng ta. “Hãy bước đi trong sự yêu thương, cũng như Đấng Christ đã yêu thương chúng ta và phó chính mình Ngài vì chúng ta, một của dâng và của tế lễ cho Đức Chúa Trời làm một thức hương có mùi thơm” (Ê-phê-sô 5:2 NKJV).
Tự mình, chúng ta không thể làm đẹp lòng Đức Chúa Trời bởi địa vị chúng ta có hay điều chúng ta làm, nhưng bởi đức tin, chúng ta có thể được chấp nhận trong Chúa Giê-xu Christ. Cha đã phán về Chúa Giê-xu “Này là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Ma-thi-ơ 3:17). Những ai đặt đức tin nơi Đấng Christ đều “ở trong Đấng Christ” (2Cô-rinh-tô 5:17), và khi Cha nhìn họ, Ngài thấy sự công bình của Con Ngài (2Cô-rinh-tô 5:21). Các tín hữu được “chấp nhận trong Con yêu dấu” Đấng đẹp lòng Cha mọi đàng (Ê-phê-sô 1:6).
Giống như chiếc tàu đã cứu Nô-ê và gia đình ông, Chúa Giê-xu Christ đã vượt qua cơn bão về sự xét đoán của Đức Chúa Trời cho chúng ta.Giô-na, là một điển hình về Đấng Christ trong sự chết, chôn, và sống lại (Ma-thi-ơ 12:38-40), đã vượt qua cơn bão về sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời vì sự bất tuân của ông, nhưng Chúa Giê-xu đã vượt qua cơn bão trong sự vâng phục ý muốn Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu có thể nói: “Các lượn sóng và nước lớn của Chúa đã ngập tôi” (Thi Thiên 42:7 Giô-na 2:3). Sự thưong khó của Chúa chúng ta trên thập tự giá là “sự báp-tem” mà Chúa Giê-xu đã đề cập trong Lu-ca 12:50 và điều đó được mô tả khi Giăng Báp-tít làm báp-tem cho Chúa Giê-xu ở sông Giô-đanh.
5. Đức Chúa Tái xác định trật tự thiên nhiên (Sáng Thế Ký 8:21-22)
Chúa đã không phán những lời này với Nô-ê, Ngài phán những lời ấy với chính Ngài trong lòng Ngài. Đó là đáp ứng nhân từ của Ngài đối với đức tin, sự vâng phục và sự thờ phượng của Nô-ê. Đức Chúa Trời đã hứa điều gì?
Đất không bị rủa sả nữa (Sáng Thế Ký 8:21a). Đức Chúa Trời rủa sả đất vì tội lỗi A-đam (Sáng Thế Ký 3:17) và thêm một sự rủa sả nữa vì tội lỗi Ca-in (Sáng Thế Ký 4:11-12). Lời hứa của Đức Chúa Trời được ghi lại ở đây không làm mất hiệu lực những sự rủa sả đó, và chúng ta sẽ không bị cất đi cho đến khi Chúa Giê-xu Christ tái lâm và dân sự Đức Chúa Trời ở trong thành thánh (Khải Huyền 22:3).Nhưng trong ân điển Ngài, Đức Chúa Trời quyết định không thêm vào tai họa của con người.
Không có những cơn lụt toàn cầu nữa (c.21b). Đức Chúa Trời cũng quyết định rằng sẽ không có những cơn lụt trong tương lai nữa. Lý do của Đức Chúa Trời được trình bày trong c.21 đã được giải thích khác nhau, và sự giải thích của bạn tùy thuộc vào mức độ nào đó về cách bạn dịch bản văn.Phải chăng Đức Chúa Trời phán “cho dù mọi khuynh hướng của lòng loài người là xấu” (KJV, NIV), hay Ngài phán “cho dù mọi khuynh hướng của lòng người là xấu” (NIV)? Từ đầu Chúa đã giáng Cơn Nước Lụt vì tấm lòng xấu xa của loài người (Sáng Thế Ký 6:5). Vì vậy, không giáng sự xét đoán khác sẽ khiến điều đó giống như Cơn Nước Lụt là một sai lầm hay một thất bại hoặc Đức Chúa Trời đã từ bỏ dòng dõi loài người được dựng nên theo hình ảnh Ngài.
Nếu chúng ta dịch Sáng Thế Ký 8:21 “vì”, rồi chúng ta cho rằng Đức Chúa Trời nói “lòng loài người là gian ác không thể chữa được. Cơn Nước Lụt đã xoá sạch những kẻ vi phạm, nhưng nó không thể chữa được. Cơn Nước Lụt đã xóa sạch những kẻ vi phạm, nhưng nó không thể thay đổi lòng người. Vì vậy, có sự xét đoán khác cũng sẽ không giải quyết vấn đề”. Nếu chúng ta dịch “cho dù như vậy”, có nghĩa là Đức Chúa Trời nói “vâng, họ đáng lãnh sự xét đoán vì lòng họ gian ác. Và việc cứ ở trong tội lỗi mà không học bài học của mình từ cơn nước lụt này chỉ cho thấy họ xấu xa thể nào. Nhưng trong ân điển, ta sẽ không giáng cơn nước lụt khác hay rủa sả đất”
Có lẽ cả hai điều đúng. Điều quan trọng là Đức Chúa Trời phán những lời này trong sự đáp ứng của lễ của Nô-ê, và của lễ là một bức tranh về sự hy sinh của Đấng Christ (Hê-bơ-rơ 10:1-10 Ê-phê-sô 5:2). Trên cơ sở sự chuộc tội được Chúa Giê-xu Christ thực hiện tại thập tự giá, Đức Chúa Trời có thể phán: “Một giá đã được trả cho tội lỗi của thế gian, và ta có thể rút lại sự xét đoán. Sự công bình đã được đáp ứng, Luật pháp của ta đã được gìn giữ, và ta có thể bày tỏ ân điển cho một thế giới hư mất. Ta sẽ không giáng cơn nước lụt khác và xóa sạch dòng dõi loài người. Ngược lại, ta sẽ ban cho họ sự cứu rỗi lớn của ta”.
Điều này không có nghĩa là Đức Chúa Trời không xét đoán tội lỗi hôm nay hoặc sẽ không có sự xét đoán thế gian trong tương lai. Rô-ma 1:18 cho biết rõ rằng sự xét đoán của Đức Chúa Trời đang được bày tỏ nghịch với tội nhân ngay bây giờ qua những hậu quả của tội lỗi. Đức Chúa Trời đã giao họ xiềng xích tội lỗi của chính họ và bỏ mặc họ những hậu quả của tội lỗi trong chính thân thể họ. Một trong những sự xét đoán lớn nhất Đức Chúa Trời có thể giáng cho tội nhân là để họ theo ý riêng của họ và trả giá cho điều đó trong chính đời sống của họ. Đó là sự xét đoán mà thế gian đang kinh nghiệm ngay bây giờ. Sẽ có một sự xét đoán toàn cầu trong tương lai, nhưng không phải là một sự xét đoán bằng nước. Đó sẽ là một sự xét đoán bằng lửa (2Phi-e-rơ 3:1-18).
Không có sự gián đoạn về chu kỳ của thiên nhiên (Sáng Thế Ký 8:22). Cơn Nước Lụt đã làm gián đoạn chu kỳ bình thường của các mùa trong một năm, nhưng điều đó sẽ không bao giờ lặp lại nữa. Trái lại, Đức Chúa Trời đã tái xác định rằng sự nhịp nhàng của ngày, tuần và mùa sẽ tiếp tục bao lâu đất tồn tại. Nếu không có sự đảm bảo này, loài người có thể không bao giờ biết chắc về việc có những thứ cần thiết của đời sống.
Chúng ta giờ đây biết rằng chu kỳ đều đặn của ngày và đêm, tuần và tháng, mùa và năm, được duy trì bởi sự quay vòng của trái đất trên trục của nó và quỹ đạo của trái đất quanh mặt trời. Đức Chúa Trời đã tạo ra chu kỳ cách ấy để vũ trụ của Ngài sẽ hoạt động hữu hiệu. Mặc dù có vô số ngân hà để chọn lựa, Chúa quyết định đổ đầy tình yêu và ân điển của Ngài trên cư dân của trái đất. “Đất thuộc về Đức Giê-hô-va” (Thi Thiên 24:1). Chúa đã sắp xếp vũ trụ để mọi vật sống trên đất có thể được duy trì và điều này bao gồm cả những người nam người nữ là những người rất thường quên sự chăm sóc của Đức Chúa Trời.
Sự bảo đảm trong Sáng Thế Ký 8:22 cho chúng ta hy vọng và khích lệ khi chúng ta đối diện với một tương lai chưa biết. Mỗi khi chúng ta đi ngủ vào ban đêm hay giở lịch sang một tháng mới, chúng ta sẽ được nhắc nhở rằng Đức Chúa Trời quan tâm về hành tinh trái đất và cư dân trái đất. Với sự phát minh về ánh sáng điện cùng những phương tiện giao thông vận tải hiện đại, thế giới chúng ta đã đi xa khỏi việc sống bởi những chu kỳ thiên nhiên do Đức Chúa Trời thiết lập. Chúng ta không còn đi ngủ lúc mặt trời lặn và thức dậy lúc mặt trời mọc, và nếu chúng ta không thích thời tiết nơi mình ở, chúng ta có thể nhanh chóng đi du lịch đến một môi trường khí hậu khác. Nhưng nếu Đức Chúa Trời muốn làm mặt trời mờ tối, sắp xếp lại các mùa, hay làm trái đất nghiêng đi một góc khác, sự sống chúng ta lâm nguy.
Đức Chúa Trời mời gọi chúng ta sống từng ngày một. Chúa Giê-xu đã dạy chúng ta cầu nguyện “Xin cho chúng tôi hôm nay đồ ăn đủ ngày” (Ma-thi-ơ 6:11) và cảm tạ về điều đó. “Các ngày ngươi bao lâu, sức lực ngươi cũng sẽ bấy nhiêu” (Phục truyền 33:25 NKJV Ma-thi-ơ 6:25-34). Khi các môn đồ can Chúa Giê-xu đừng đi đến Bê-tha-ni, Ngài đáp: “Trong ban ngày há chẳng phải có 12 giờ sao? (Giăng 11:9). Ngài đã vâng theo thời gian biểu của Cha và sống từng ngày một, tin cậy Cha chăm sóc Ngài.
“Giao ước ngày và đêm” của Đức Chúa Trời đặc biệt có ý nghĩa đối với dân Y-sơ-ra-ên, vì nó đảm bảo với họ sự chăm sóc và bảo vệ của Ngài để họ sẽ không bao giờ thôi làm một dân tộc (Giê-rê-mi 33:19-26). Lời hứa của Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ không giáng cơn nước lụt khác là sự bảo đảm cho dân Do Thái rằng giao ước của Ngài với họ sẽ chẳng bao giờ bị phá vỡ (Ê-sai 54:7-10).
Chúng ta có khuynh hướng xem việc mặt trời mọc và mặt trời lặn là điều bình thường, nhưng mọi chức năng này chính là những chứng cớ cho thấy Đức Chúa Trời ngự trên ngôi và giữ những lời hứa của Ngài. Mọi sự sáng tạo rao ra một bài giảng bất biến, ngày này sang ngày nọ, mùa này tiếp mùa khác, bảo đảm với chúng ta về sự chăm sóc yêu thương của Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể tin cậy lời Ngài vì “chẳng có một lời nào không ứng nghiệm về mọi lời hứa tốt lành của Ngài” (1Các vua 8:56).
9. HÃY ĐẾN VỚI SỰ SỐNG! (Sáng Thế Ký 9:1-17)
“Hãy đến với sự sống” là một trong những bài hát vui nhất trong “Fiddler on the roof” một khúc nhạc mô tả đời sống người Do Thái trong ngôi làng nhỏ Anatevka.
Người bán sữa tên Tevge và những láng giềng của anh cô thế, nghèo nàn và không biết chắc về tương lai họ ở nước Nga chuyên chế. Nhưng họ vẫn ca tụng đời sống như một món quà vui mừng từ một Đức Chúa Trời nhân từ. Dù đó là sự tuyên bố đính hôn, sự ra đời của một em bé, hay thậm chí một chiếc máy may vừa được gởi đến, những cư dân Anatevka, khiêm nhường đã tìm thấy những lý do để tạ ơn vì những phước hạnh của đời sống.
Trong phân đoạn này (Sáng Thế Ký 9:1-17), Đức Chúa Trời nói với 8 người sống sót trong Cơn Nước Lụt và cho họ những chỉ dẫn về 4 lĩnh vực của đời sống. Dù từ đầu được bày tỏ cho Nô-ê và gia đình ông, những chỉ dẫn này áp dụng cho mọi người trong mọi thời đại và mọi nơi. Đó là những qui định thường trực từ Đức Chúa Trời cho cả loài người, và chúng không nên bị bỏ qua hoặc thay đổi. Đời sống là quí giá, và nó phải được xử lý cẩn thận.
1. Thêm nhiều sự sống (Sáng Thế Ký 9:1-7)
Khi Nô-ê ra khỏi tàu, ông như “A-đam thứ 2” sắp bước vào một khởi đầu mới trên đất cho dòng dõi loài người. Đức tin nơi Chúa đã cứu Nô-ê cùng gia đình ông khỏi sự hủy diệt, và ba con trai ông sẽ tái cư trú khắp đất (c.18).
Đức Chúa Trời đã bảo A-đam với Ê-va “hãy sanh sản, thêm nhiều và làm cho đầy dẫy đất” (Sáng Thế Ký 1:28), và Ngài lặp lại mệnh lệnh đó hai lần với Nô-ê và gia đình ông (Sáng Thế Ký 9:1, 7). Mọi con cháu của Nô-ê quan trọng đối với kế hoạch của Đức Chúa Trời, nhưng đặc biệt là dòng của Sem. Từ dòng đó Áp-ra-ham sẽ được sinh ra, người mà Đức Chúa Trời chọn để lập dân tộc Do Thái. Từ dân tộc đó sẽ ra Đấng Cứu Chuộc, là Đấng sẽ làm trọn Sáng Thế Ký 3:15 và giày đạp đầu con rắn.
Trong Kinh Thánh, con cái được mô tả như một phước hạnh không phải một sự rủa sả, và việc có nhiều con cháu là chứng cớ về đặc ân của Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 24:60 Thi Thiên 121:3-5 Thi Thiên 128:3-4). Đức Chúa Trời đã hứa với Áp-ra-ham rằng con cháu ông sẽ như sao trên trời và cát dưới biển (Sáng Thế Ký 15:5 Sáng Thế Ký 22:17), và các thánh tổ đã cầu xin phước hạnh về sự sinh ra những người thừa kế họ (Sáng Thế Ký 28:3 Sáng Thế Ký 35:11 Sáng Thế Ký 48:4). Chúa đã lập giao ước với Y-sơ-ra-ên để ban cho họ nhiều con cái nếu dân tộc vâng theo những luật lệ của Ngài (Sáng Thế Ký 26:9 Phục truyền 7:13).
Nhiều người ngày nay dường như không có thái độ đó đối với con cái. Bắt đầu bằng cuộc chiến tranh Cách Mạng, trong gần 200 năm của lịch sử Mỹ, 1.200.000 quân nhân đã bị giết trong 9 cuộc chiến tranh lớn. Nhưng trong một năm ở nước Mỹ, 1.600.000 trẻ sơ sinh bị phá thai hợp pháp [75]Trong thời Kinh Thánh, các cặp vợ chồng Do Thái đã không nghĩ đến việc phá thai một em bé, dù hoàn cảnh của họ khó khăn ra sao hay nguồn tài chính của họ thiếu thốn thế nào. Đời sống là món quà của Đức Chúa Trời và con cái là một di sản từ Đức Chúa Trời, là của báu phải được bảo vệ và đầu tư vì vinh hiển của Ngài.
2. Duy trì sự sống (Sáng Thế Ký 9:2-4)
Một cuộc nghiên cứu được thực hiện trong năm 1900 cho thấy rằng con người cảm thấy họ cần 72 đồ dùng để thực hiện chức năng một cách bình thường và được hài lòng.Năm mươi năm sau đó, trong một cuộc nghiên cứu tương tự, tổng số lên đến gần 500 đồ dùng! Nhưng Kinh Thánh chỉ liệt kê hai thứ: “Có thức ăn và quần áo, chúng ta phải thoả lòng với những điều này” (1Ti-mô-thê 6:8 NKJV).
Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giê-xu đã dạy chân lý tương tự khi Ngài phán về loài chim và loài hoa (Ma-thi-ơ 6:24-34). Nếu Cha trên trời mặc cho loài hoa vẻ đẹp và ban cho loài chim thức ăn của chúng, chắc chắn Ngài sẽ chu cấp thức ăn và quần áo cho con cái yêu dấu của Ngài, “vì Cha các ngươi ở trên trời biết rằng các ngươi cần mọi điều này” c.32, NKJV).
Khi Đức Chúa Trời đặt A-đam và Ê-va trong gia đình là khu vườn của họ; Ngài ban cho họ trái cây và thực vật để ăn (Sáng Thế Ký 1:29 Sáng Thế Ký 2:9, 16), nhưng sau Cơn Nước Lụt, Ngài mở rộng thức ăn của loài người kể cả thịt. Sự hài hòa trong thiên nhiên mà A-đam và Ê-va hưởng được bây giờ không còn nữa, vì Nô-ê và gia đình ông không có “quyền cai trị” trên sự sống thú vật (Sáng Thế Ký 1:26, 28). Giờ đây, thú vật sẽ sợ hãi loài người và làm mọi điều có thể để thoát khỏi mối đe dọa của cái chết. Từ khi đa số thú vật sinh sản nhanh chóng và con cái nó tăng trưởng nhanh chóng, các loài thú có thể dễ dàng vượt quá dân số con người. Vì vậy Đức Chúa Trời đã đặt sự sợ hãi con người trong loài vật. Ca-in là nông dân, A-bên là người chăn chiên, nhưng Nô-ê và các con trai ông là những thợ săn.
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đặt một hạn chế về việc ăn thịt thú vật, thịt phải được sạch máu (Sáng Thế Ký 9:4). Đức Chúa Trời xác định một cách ngắn gọn với Nô-ê điều mà sau đó Ngài lập tỉ mỉ qua Môi-se: sự sống ở trong huyết, và sự sống phải được tôn trọng, dù bạn đang giết một con thú để ăn tại môt kỳ lễ (Lê-vi Ký 3:17 Lê-vi Ký 7:26-27 Lê-vi Ký 17:10-14 Lê-vi Ký 19:26 Phục truyền 12:16 Phục truyền 12:23-25 Phục truyền 15:23)[76] Trong sự hạn chế này, Đức Chúa Trời một lần nữa bày tỏ sự quan tâm của Ngài đối với sự sống loài vật.Sự sống ở trong huyết, và sự sống đó đến từ Đức Chúa Trời nên phải được tôn trọng. Hơn nữa, huyết thú vật sẽ quan trọng trong hầu hết những của lễ theo luật Môi-se vì vậy huyết phải được xử lý bằng sự trân trọng.
Chúa Giê-xu đã dạy rằng có thể được phép ăn mọi thức ăn (Mác 7:1-23), và Phi-e-rơ (Công vụ 10:1-48) với Phao-lô (1Ti-mô-thê 4:3-4 Cô-lô-se 2:16) đã xác nhận chân lý này. Tuy nhiên, Hội Thánh đầu tiên vẫn đối diện với những bất đồng về thức ăn (Rô-ma 14:1-15:7). Để giữ cho các tín hữu người ngoại khỏi gây vấp phạm cho những tín đồ Do Thái hoặc những người tìm kiếm đạo, các Cơ Đốc nhân đầu tiên được khuyên không được bất cẩn trong việc ăn thịt (Công vụ 15:19-21, 24-29)[77] Lời khuyên của Phao-lô là: hãy tiếp nhận nhau, yêu thương nhau, đừng làm gì gây vấp phạm cho nhau và hãy tìm cách gây dựng nhau trong đức tin. Cách tiếp cận là tình yêu; mục đích là sự trưởng thành.
3. Bảo vệ sự sống (Sáng Thế Ký 9:5-6)
Từ chỗ chỉ dẫn Nô-ê về việc làm đổ máu thú vật, Chúa tiếp tục bàn đến một chủ đề quan trọng hơn, việc làm đổ máu loài người. Cho đến nay, loài người không có một ghi chép tốt đẹp cho lắm khi nói về việc quan tâm đến nhau. Ca-in đã giết A-bên em mình (Sáng Thế Ký 4:8), Lê-méc đã giết một người trai trẻ và khoe khoang về điều đó (c.23-24), và đất đã đầy dẫy mọi thứ bạo lực (Sáng Thế Ký 6:11, 13). Đức Chúa Trời đã đặt sự sợ hãi con người trong loài vật, nhưng giờ đây đã phải đặt sự kính sợ Đức Chúa Trời trong con người để họ không hủy diệt lẫn nhau!
Những ai giết đồng loại mình sẽ phải trả lời trước mặt Đức Chúa Trời về những hành động của mình, vì người nam người nữ đều được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời [78] Tấn công một con người là tấn công Đức Chúa Trời, và Chúa sẽ đem sự xét đoán đến trên kẻ vi phạm. Mọi sự sống là sự ban cho của Đức Chúa Trời, và cất sự sống đi nghĩa là chiếm chỗ của Đức Chúa Trời. Chúa ban cho sự sống và chỉ một mình Ngài có quyền cho phép cất sự sống đi (Gióp 1:21).
Nhưng Đức Chúa Trời đã định trừng phạt kẻ giết người ra sao để thấy rằng sự công bình được thực hiện và Luật pháp được gìn giữ? Ngài đã thiết lập chính thể loài người trên đất và khi làm vậy Ngài chia sẻ với loài người quyền đáng sợ về việc cất mạng sống con người. Đó là nội dung mệnh lệnh của Đức Chúa Trời trong Sáng Thế Ký 9:6. Chính thể loài người và án tử hình đi đôi với nhau, như Phao-lô giải thích trong Rô-ma 13:1-7. Nhà cầm quyền mang thanh gươm và có quyền sử dụng nó.
Dưới Luật pháp Cựu Ước, không có quyền lực cảnh sát như chúng ta biết. Nếu một vụ giết người bị vi phạm, nó được gia đình nạn nhân tìm ra thủ phạm để đem hắn đến quan tòa. Có một sự khác nhau giữa sự giết người và tội ngộ sát (Xuất Ê-díp-tô 21:12-14) vì vậy Chúa đã hướng dẫn dân tộc Y-sơ-ra-ên lập 6 thành ẩn náu mà kẻ giết người bị tố cáo có thể trốn để được an toàn (Dân Số Ký 35:6-34 Phục truyền 19:1-13). Các trưởng lão của thành sẽ bảo vệ bị cáo cho đến khi vụ kiện có thể được điều tra, và nếu các bị cáo bị thấy có tội, gia đình của người chết có thể tiếp tục việc thi hành án. Vì kẻ giết người đã làm đổ máu, máu của kẻ giết người phải bị đổ ra.
Chính thể được thiết lập bởi Đức Chúa Trời, vì lòng người xấu xa (Sáng Thế Ký 6:5) và sự sợ hình phạt có thể giúp ngăn trở những kẻ vi phạm luật. Luật pháp có thể ngăn trở nhưng không thể phục hồi, chỉ ân điển Đức Chúa Trời mới có thể thay đổi lòng người (Giê-rê-mi 31:31-34 Hê-bơ-rơ 8:7-13). Nhưng nếu cá nhân, gia đình hoặc nhóm được phép đối phó với kẻ vi phạm theo ý mình, xã hội sẽ ở trong một tình trạng hỗn loạn thường trực. Chính thể loài người có những khiếm khuyết và giới hạn của nó, nhưng chính thể thì tốt hơn tình trạng vô chính phủ và con người làm điều gì đúng theo mắt mình (Các Quan Xét 17:5 Các Quan Xét 18:1 Các Quan Xét 19:1 Các Quan Xét 21:25).[79]
Đức Chúa Trời đã chỉ định và thiết lập 3 thể chế trên đất: hôn nhân và gia đình (Sáng Thế Ký 1:26-28 Sáng Thế Ký 2:18-25), chính thể loài người (Sáng Thế Ký 9:5-6)và Hội Thánh (Ma-thi-ơ 16:13-19 Công vụ 2:1-47). Mỗi chính thể có phạm vi và trách nhiệm của nó, và chính thể này không thể thay thế cho chính thể kia. Hội Thánh vận dụng gươm của Thánh Linh (Hê-bơ-rơ 4:12), không phải gươm của công lý (Rô-ma 13:4 Giăng 18:36). Nhưng nếu chính thể can thiệp những vấn đề về lương tâm Cơ Đốc, các tín hữu có quyền không vâng theo (Công vụ 4:18-20).
Những người phản đối án tử hình hỏi: “Án tử hình có cản trở tội ác không?” Nhưng có luật pháp nào cản trở tội ác, kể cả luật đậu xe và luật tốc độ? Có lẽ không như chúng ta mong muốn nhưng hình phạt của những kẻ phạm tội thật sự giúp xã hội tôn trọng luật pháp và công lý. Không ai biết có bao nhiêu người học về nhận thức tội lỗi và suy nghĩ lại trước khi họ bất tuân luật pháp. Luật pháp cũng giúp bảo vệ và bồi thường cho người vô tội là nạn nhân của hành vi vô luật pháp.
Không phải mọi sự hợp pháp đều hợp với Kinh Thánh, không kể những điều mà các triết gia, nghị viên và tòa án có thể nói, mệnh lệnh của Đức Chúa Trời về án tử hình bắt đầu bằng “bất cứ ai”. Nó được Đức Chúa Trời ban ra để mọi người tôn trọng và vâng theo.
4. Vui hưởng sự sống (Sáng Thế Ký 9:8-17)
Phân đoạn này là điều được các nhà thần học gọi là “Giao ước Nô-ê”. Dù Đức Chúa Trời phán đặc biệt với Nô-ê và các con trai ông, giao ước này bao gồm mọi con cháu của Nô-ê (c.9) và “mọi đời hầu đến” (c.2, NIV), Tuy nhiên, giao ước không dừng lại ở đó vì nó cũng kể đến mọi vật sống (c.10, 12) và “mọi loài sinh vật” (c.15 NIV).Con người, loài chim, loài vật, thú hoang đều được bao gồm trong giao ước kỳ diệu này.
Trong giao ước này, Đức Chúa Trời hứa vô điều kiện rằng Ngài sẽ không bao giờ giáng cơn lụt khác để hủy diệt mọi sự sống trên đất. Như thể làm cho nó được nhấn mạnh, ba lần Ngài phán “chẳng bao giờ lại” (c.11, 15, NKJV, NIV). Ngài không đặt bất cứ điều kiện nào để loài người phải vâng theo, Ngài chỉ xác định sự thật rằng sẽ không có những cơn nước lụt toàn cầu nữa. Từ ngày đó trở đi, Nô-ê và gia đình ông có thể vui hưởng đời sống và không lo lắng mỗi khi mưa bắt đầu đổ xuống.
Một giao ước với sự sáng tạo. Ít nhất bốn lần trong giao ước này, Chúa đề cập “mọi vật sống”. Ngài đang nói về loài thú và loài chim mà Nô-ê đã giữ an toàn trong tàu suốt Cơn Nước Lụt (c.10). Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở về sự quan tâm đặc biệt của Đức Chúa Trời đối với sự sống loài vật.
Khi Sứ đồ Giăng ngắm xem ngôi trên trời, ông thấy bốn “sinh vật” thờ phượng trước ngôi Đức Chúa Trời, mỗi sinh vật có một gương mặt khác nhau (Khải Huyền 4:6-7). Sinh vật thứ nhất có mặt giống như sư tử, con thứ hai giống như bò đực, con thứ ba như người và con thứ tư như chim phụng hoàng. Bốn gương mặt tương tự với bốn loài vật mà Đức Chúa Trời đã lập giao ước này với chúng: thú hoang, súc vật, loài người và loài chim (Sáng Thế Ký 9:9-10). Những sinh vật này mãi được đại diện trước ngôi Đức Chúa Trời, vì Chúa quan tâm đến sựsáng tạo của Ngài. Chúng nhắc nhở chúng ta rằng toàn bộ sự sáng tạo thờ phượng và tôn vinh Đức Chúa Trời. Đấng chu cấp cho những tạo vật của Ngài, và vui mừng trong sự thờ phượng của chúng. [80]
Một dấu hiệu giao ước. Để giúp dân sự Ngài nhớ những giao ước của Ngài, Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ một dấu hiệu có thể thấy được. Giao ước của Ngài với Áp-ra-ham được ấn chứng bằng dấu hiệu của phép cắt bì (Sáng Thế Ký 17:11 Rô-ma 4:9-12) và giao ước với môi-se tại núi Si-na-i bằng dấu hiệu về ngày Sa-bát hằng tuần (Xuất Ê-díp-tô 31:16-17). Giao ước của Đức chúa Trời với Nô-ê và loài vật được ấn chứng nhớ lời hứa của Đức Chúa Trời rằng không có cơn bão nào trong tương lai sẽ trở nên một cơn lụt toàn cầu hủy diệt loài người.
Mark Twain và bạn ông là William Dean Howells đã bước ra khỏi nhà thờ ngay khi một cơn mưa bão dữ dội bắt đầu. Howells nói” Tôi chẳng biết nó sẽ tạnh hay không”, và Mark Twain đáp: “Nó luôn tạnh”. Ông nơi đúng, nó luôn tạnh! Vì sao? Vì Đức Chúa Trời đã lập một giao ước và Ngài luôn giữ Lời Ngài.
Đức Chúa Trời phán về cái cầu vồng như thể Nô-ê và gia đình ông quen thuộc với nó, vì vậy, chắc nó đã tồn tại trước Cơn Nước Lụt. Những cầu vồng được tạo nên bởi ánh sáng mặt trời xuyên qua nước trong không khí, mỗi giọt nước trở thành một lăng kính phát những màu sắc tiềm ẩn trong ánh sáng trắng của mặt trời. Những cầu vồng mỏng manh nhưng đẹp đẽ, và không ai phải trả tiền để xem chúng! Những màu sắc đáng yêu của chúng nói với chúng ta về điều mà Phi-e-rơ gọi là “ân điển muôn vẻ của Đức Chúa Trời” (1Phi-e-rơ 4:10). “Muôn vẻ” nghĩa là “khác nhau, nhiều màu sắc, nhiều đốm màu”. Cái cầu vồng nhắc nhở chúng ta về giao ước nhân từ của Đức Chúa Trời và ân điển “muôn màu” của Đức Chúa Trời.
Chúng ta hãy theo đuổi tư tưởng đó. Nếu cái cầu vồng nhắc chúng ta về sự thành tín và ân điển của Đức Chúa Trời, vậy tại sao chúng ta phiền muộn và lo lắng? Đức Chúa Trời đã không hứa rằng chúng ta sẽ không bao giờ kinh nghiệm những cơn bão, nhưng Ngài hứa rằng những cơn bão sẽ không hủy diệt chúng ta. “Khi người vượt qua các dòng nước, ta sẽ ở cùng, và khi ngươi vượt qua sông, chúng sẽ chẳng che lấp ngươi” (Ê-sai 43:2 NKJV). Khi những đám mây xuất hiện và mặt trời bị che khuất, chúng ta không có gì để sợ hãi.
Chúng ta hãy nghĩ về cây cung. Cây cung là một dụng cụ chiến tranh nhưng Đức Chúa Trời đã biến đổi nó thành một bức tranh về ân điển và sự thành tín của Ngài, một sự bảo đảm về sự bình an. Đức Chúa Trời chắc chắn có thể xoay cây cung của sự xét đoán trên chúng ta, vì chúng ta đã vi phạm Luật pháp của Ngài và đáng lãnh sự xét đoán. Nhưng Ngài đã xoay cây cung về phía Thiên Đàng và chính Ngài mang lấy sự xét đoán thay chúng ta! Khi Chúa Giê-xu chịu chết trên thập tự giá, chính Đấng Công Bình chịu thương khó vì những kẻ không công bình (1Phi-e-rơ 3:18) và mang lấy sự thương khó mà đúng ra thuộc về chúng ta.
Những cái cầu vồng mang tính toàn cầu, bạn nhìn thấy chúng khắp thế giới. Ân điển muôn màu của Đức Chúa Trời đủ cho cả thế giới và cần phải được rao báo cho toàn thế giới. Xét cho cùng, Đức Chúa Trời yêu thương thế giới (Giăng 3:16) và Đấng Christ đã chết thay tội lỗi của thế giới (1Giăng 4:10, 14).
Nhưng cái cầu vồng không chỉ để cho chúng ta nhìn mà thôi, vì Chúa đã phán “ta sẽ nhìn xem nó” (Sáng Thế Ký 9:16). Chắc chắn Đức Chúa Trời không quên những giao ước của Ngài với dân sự Ngài, nhưng đây chỉ là cách khác để bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta không cần phải sợ hãi. Khi chúng ta nhìn xem cái cầu vồng, chúng ta biết rằng Cha chúng ta cũng đang nhìn xem cái cầu vồng. Và do đó, nó trở thành môt chiếc cầu đem chúng ta lại gần với nhau.
Ba cái cầu vồng. Có ba người trong Kinh Thánh đã nhìn thấy những cái cầu vồng đầy ý nghĩa. Nô-ê nhìn thấy cái cầu vồng sau cơn bão, giống như dân Đức Chúa Trời, nhìn thấy nó ngày nay. Nhưng tiên tri Ê-xê-chi-ên nhìn thấy cái cầu vồng giữa cơn bão, khi ông có khải tượng đặc biệt về những bánh xe và ngôi Đức Chúa Trời (Ê-xê-chiên 1:28). Ê-xê-chi-ên cũng nhìn thấy những sinh vật và mỗi sinh vật có bốn mặt! Một con giống như người, một con giống sư tử, một con giống bò đực và một con giống chim phụng hoàng - những gương mặt tương tự mà Giăng đã thấy (Khải Huyền 4:6-7).
Dĩ nhiên Sứ đồ Giăng nhìn thấy cái cầu vồng trước khi cơn bão của sự xét đoán ập xuống (c.3). Thật ra, Giăng nhìn thấy một cái cầu vồng toàn vẹn ở xung quanh ngôi Đức Chúa Trời! Trên đất, chúng ta thấy “một phần”, nhưng một ngày nào đó trên ThiênĐàng, chúng ta sẽ nhìn thấy mọi vật một cách đầy đủ như chúng thật sự vốn có (1Cô-rinh-tô 13:12).
Bài học cá nhân cho dân sự Đức Chúa Trời đơn giản là:trong những cơn bão của đời sống, hãy luôn tìm kiếm cái cầu vồng về lời hứa giao ước của Đức Chúa Trời. Giống như Giăng, bạn có thể nhìn thấy cái cầu vồng trước cơn bão. Giống như Ê-xê-chi-ên bạn có thể thấy nó giữa cơn bão, hoặc giống như Nô-ê bạn có thể phải chờ đợi cho đến sau cơn bão. Nhưng bạn sẽ luôn nhìn thấy cái cầu vồng về lời hứa của Đức Chúa Trời nếu bạn nhìn xem bằng đức tin. Đó là bản dịch Cựu Ước của Rô-ma 8:28.
Giao ước của Đức Chúa Trời với sự sáng tạo của Ngài ảnh hưởng đến mọi sinh vật trên đất. Nếu không có giao ước đó, sẽ không có sự liên tục được bảo đảm về thiên nhiên từ ngày này sang ngày khác và từ mùa này sang mùa kia. Chúng ta sẽ không bao giờ biết khi nào cơn bão sắp tới sẽ đến và liệu đó sẽ là cơn bão cuối cùng của chúng ta hay không.
Đức Chúa Trời muốn chúng ta vui hưởng những phước hạnh của đời sống tự nhiên và đời sống thuộc linh, vì Ngài “ban cho chúng ta mọi vật dư dật để vui hưởng” (1Ti-mô-thê 6:17). Khi bạn biết Chúa Giê-xu Chirst là Chúa và Cứu Chúa, thế giới thiên nhiên quanh bạn trở nên kỳ diệu hơn nhều, vì Đấng Sáng Tạo đã trở thành Cha của bạn.
Trong những năm về sau, nhà truyền giáo người Mỹ D. L. Moody đã nói về sự qui đạo của ông khi còn là một thiếu niên, ông nói: “Tôi đã ở trong một thế giới mới. Sáng hôm sau, mặt trời chiếu sáng hơn và những con chim hót ngọt ngào hơn…. Những cây đu già vẫy cành vì vui mừng, và cả thiên nhiên ở trong sự hòa bình. Đó là niềm vui thú vị nhất mà tôi từng biết”. [81] là Chúa của sự cứu rỗi. Hãy tin cậy Chúa Giê-xu Christ và rồi bạn có thể thật sự hát “Đây là thế giới của Cha tôi”.
10. PHẦN CÒN LẠI CỦA CÂU CHUYỆN (Sáng Thế Ký 9:18-10:32)
Tôi là người mê đọc các tiểu sử và tự truyện, và tôi thường hối tiếc khi lật sang trang của một cuốn sách để phát hiện một bộ xương đang nhe răng ra lén vào phòng riêng của ai đó mà tôi từng thán phục. Nhà bình luận người Mỹ Russell Baker đã nói: “Vấn đề của người viết tiểu sử đó là anh ta không bao giờ biết đủ.Vấn đề của người viết tự truyện đó là anh ta biết quá nhiều” [82] Nhưng khi Đức Chúa Trời viết câu chuyện, Ngài biết mọi sự về mọi người và luôn nói sự thật, và Ngài làm điều đó vì ích lợi của chúng ta.
Lịch sử về Nô-ê với gia đình ông giờ đây đi từ những cái cầu vồng đến những bóng mờ, và chúng ta nhìn xem những tội lỗi đáng xấu hổ của một con người cao trọng của đức tin. Tiến sĩ William Culbertson, trong nhiều năm làm hiệu trưởng của học viện Kinh Thánh Moody ở Chicago, thường kết thúc bài cầu nguyện của ông giữa đám đông bằng lời “Và, lạy Chúa, hãy giúp chúng con kết thúc tốt đẹp”. Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện đó cho Tấn sĩ Culbertson nhưng không phải mọi tín hữu giờ đây ở Thiên Đàng đã kết thúc cuộc chạy đua và được nghe Đức Chúa Trời phán “được lắm!”. Tuy nhiên, chúng ta hãy độ lượng và nhớ lời cảnh cáo của Phao-lô “Vậy, ai tưởng mình đứng, hãy chú ý, kẻo ngã” (1Cô-rinh-tô 10:12 NKJV). Xét cho cùng, Nô-ê không nghĩ điều đó sẽ xảy đến cho ông!
1. Một bị kịch gia đình (Sáng Thế Ký 9:18-23)
Mục lục cho “Phần còn lại của câu chuyện” ở c. 18-19. Những nhân vật chính được liệt kê - Nô-ê, Shem, Cham và Gia-phết - cùng chủ đề chính của phân đoạn này được tuyên bố: Thể nào gia đình Nô-ê đã nhiều thêm và rải rác khắp đất. Độc giả Kinh Thánh đương đại thường bị cám dỗ để bỏ qua những liệt kê này về những tên không có tiếng tăm, nhưng điều đó không làm giảm đi sự quan trọng của những tên ấy. “Những người không có tiếng tăm” nay đã lập nên những dân tộc mà suốt lịch sử Kinh Thánh đã ảnh hưởng lẫn nhau và giúp thực hiện những mục đích của Đức Chúa Trời trên đất này. Con cháu của Sem-dân Y-sơ-ra-ên-đã đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trên sân khấu của lịch sử.
Sự ô nhục (Sáng Thế Ký 9:20-21).Khi trở thành một nông dân Nô-ê theo nghề nghiệp của cha ông là Lê-méc (Sáng Thế Ký 5:28-29). Mặc dù Kinh Thánh lên án sự say rượu (Châm Ngôn 20:1 23:19-21 Châm Ngôn 23:29-35 Ê-sai 5:11 Ha-ba-cúc 2:15 Rô-ma 13:13 1Cô-rinh-tô 6:10 Ê-phê-sô 5:18), Kinh Thánh không lên án việc trồng hoặc ăn nho hay uống rượu. Nho, nho khô và rượu là những yếu tố quan trọng trong thức ăn của các dân Đông phương. Thật ra, trong xã hội thời Cựu Ước, rượu được xem là một phước hạnh từ Đức Chúa Trời (Thi Thiên 104:14-15 Phục truyền 14:26) và thậm chí được sử dụng với những của lễ (Lê-vi Ký 23:13 Dân Số Ký 28:7).
Đây là sự đề cập đầu tiên về rượu trong Kinh Thánh, nhưng việc chế rượu đã được thực hành trước Cơn Nước Lụt và Nô-ê chắc chắn biết rằng quá nhiều rượu sẽ như thế nào đối với ông. Để cố gắng giải tội cho Nô-ê, một số học giả tuyên bố rằng Cơn Nước Lụt đã đem lại một sự thay đổi trong không khí của trái đất, và điều này làm cho nước nho lên men lần đầu tiên, nhưng sự bảo vệ này thật yếu ớt. Nô-ê đã hái nho, ép chúng trong máy ép nho, để nước nho trong những bầu da, và chờ cho nước nho lên men.
Sự say rượu và sự lõa thể của ông thật ô nhục và hai điều thường đi đôi với nhau (Sáng Thế Ký 19:30-38 Ha-ba-cúc 2:15-16 Ca Thương 4:21). Rượu không phải là một thức uống kích thích, nó là một loại thuốc mê, và khi nào bị ảnh hưởng bởi rượu, con người mất tự chủ. Ít nhất Nô-ê đã ở trong trại của ông khi điều này xảy ra chớ không ở ngoài giữa nơi công cộng. Nhưng khi bạn xem xét ông là ai (một thầy giảng đạo công bình) và ông đã làm gì (cứu gia đình khỏi sự chết) thì tội lỗi của ông thậm chí trở nên ghê tởm hơn.
Kinh Thánh không bào chữa cho tội lỗi của các thánh đồ, nhưng đề cập chúng như những lời cảnh cáo chúng ta đừng làm điều họ đã làm (1Cô-rinh-tô 10:6-13). Như Spurgeon đã nói “Đức Chúa Trời không bao giờ cho phép con cái Ngài phạm tội một cách thành công”. Luôn luôn có một giá phải trả.
Hai lần Áp-ra-ham đã nói dối về vợ ông (Sáng Thế Ký 12:10-20 Sáng Thế Ký 20:1)và con trai ông là Y-sác đã noi gương xấu của ông (Sáng Thế Ký 26:6-16). Môi-se nổi giận và kết quả là cũng đánh mất đặc quyền bước vào Đất Thánh (Dân Số Ký 20:7-13). Giô-suê có những kết luận vội vàng và đi đến chỗ bảo vệ kẻ thù (Giô-suê 9:1-10:43). Đa-vít phạm tội tà dâm và dàn xếp để chồng của người đàn bà bị giết trong chiến trận (2Sa-mu-ên 11:1-27) và lưỡi gươm đã gây tai họa cho gia đình ông trong những năm sau đó.
Nô-ê không có ý định say rượu và phơi bày chính mình một cách vô liêm sỉ, nhưng điều đó đã xảy ra như vậy. Người Nhật có một châm ngôn thích đáng “Trước tiên người đàn ông uống rượu, sau đó rượu uống rượu, và rồi rượu uống người đàn ông”.
Sự bất kính (Sáng Thế Ký 9:22).Cham lẽ ra không nên bước vào trại của cha mình nếu không có một lời mời. Phải chăng ông đã gọi cha mình và không nhận được sự trả lời? Phải chăng ông phân vân không biết Nô-ê bệnh hay có lẽ đã chết? Phải chăng ông thậm chí biết rằng cha ông đã uống rượu? Những câu hỏi này không được bản văn trả lời, vì vậy thật vô ích để chúng ta suy đoán. Một điều chắc chắn là: Cham đã bất kính với cha mình trong điều ông đã làm.
Cách con người đáp ứng trước tội lỗi và sự ngượng ngùng của người khác là một sự bày tỏ về tính cách của họ. Cham lẽ ra có thể liếc nhìn vào trong trại, nhanh chóng phán đoán tình hình, và che thân cha, không nói gì với ai về sự việc này. Trái lại, ông dường như vui thích cảnh này và sau đó kể cho hai anh em mình về điều đó trong một thái độ thật bất kính. Có thể ông đã gợi ý để họ đích thân đi xem.
Môi-se đã chưa nói: “Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi” (Xuất Ê-díp-tô 20:12), nhưng chắc chắn điều này phải là điều tự nhiên đối với con cái và sẽ phải hiện diện trong lòng Cham. Nhưng tại sao một đứa con lại tỏ ra sự bất kính như thế đối với cha mình? Dù Cham là nhỏ nhất trong ba con trai, có lẽ ông là một “người anh” thời Tân Ước đã giận dữ với cha mình vì điều ông đã không nhận được (Lu-ca 15:25-32). Bởi điều ông đã làm, Cham đã bày tỏ một sự yếu đuối về tính cách của mình và có thể lộ ra trong con cháu ông.
Sự đúng đắn (Sáng Thế Ký 9:23). Thay vì cười với Cham và đi xem cảnh tượng ô nhục, Sem và Gia-phết bày tỏ tình yêu của họ dối với cha bằng cách thực hành Châm Ngôn 10:12 “Tình yêu che đậy mọi tội lỗi” (NKJV, xem 1Phi-e-rơ 4:8). Hai anh em đứng với nhau và giữ áo phía sau họ, đi lùi vào trong trại với mắt ngoảnh đi, và che thân thể loã lồ của Nô-ê. “Kẻ nào khoả lấp tội lỗi tìm cầu tình yêu thương” (Châm Ngôn 17:9 NKJV) và “một người khôn khéo che lấp sự nhục nhã” (Châm Ngôn 12:16 NKJV).
Tình yêu không tẩy sạch tội lỗi, vì chỉ có huyết Đấng Christ mới có thể làm được điều đó (1Giăng 1:7) Tình yêu cũng không bỏ qua tội lỗi, vì tình yêu muốn điều tốt nhất của Đức Chúa Trời cho người khac. Nhưng tình yêu thật sự che đậy tội lỗi và không đi khắp nơi phơi bày tội lỗi rồi khuyến khích người khác lan truyền tin xấu. Khi người khác phạm tội, và chúng ta biết về điều đó, nhiệm vụ của chúng ta là giúp hồi phục họ trong một tinh thần nhu mì (Ga-la-ti 6:1-2). Người ta nói rằng trên chiến trường của đời sống, Cơ Đốc nhân có khuynh hướng đá vào những người bị thương tích của họ, và điều này thường là sự thật. Nhưng trước khi chúng ta lên án người khác, chúng ta nên xem xét chính mình, vì tất cả chúng ta đều là những ứng viên cho những hành vi không thích hợp với một Cơ Đốc nhân.
2. Một lời tiên tri về gia đình (Sáng Thế Ký 9:24-29)
Khi Nô-ê tỉnh lại từ trạng thái say sưa ông có lẽ đã xấu hổ về điều mình đã làm, nhưng ông cũng ngạc nhiên thấy mình được đắp bằng một áo choàng. Đương nhiên, ông không biết điều gì đã xảy ra trong trại lúc ông đang ngủ. Điều hợp lý sẽ là nói với Gia-phết, con đầu lòng của ông, và Gia-phết với Sem chắc đã kể cho ông điều Cham đã làm.
Những lời này là lời duy nhất của Nô-ê được ghi lại trong Kinh Thánh. Thật tồi tệ khi lời nói ngắn gọn này đã bị hiểu lầm và bị dán nhãn là một “sự rủa sả”, vì điều Nô-ê đã nói đúng hơn là một lời tiên tri của một người cha về con cháu ông. Từ “sự rủa sả” được sử dụng chỉ một lần, nhưng nó được chỉ về Ca-na-an con trai út của Cham chớ không phải chỉ về chính Cham. Điều này gợi ý rằng Nô-ê đang mô tả tương lai của các con trai ông và một cháu nội của ông trên cơ sở của điều ông đã nhìn thấy trong tính cách của họ, chẳng khác gì điều Gia-cốp đã làm trước khi ông chết (Sáng Thế Ký 49:1-33).
Ca-na-an, sự nô lệ (Sáng Thế Ký 9:25). Nếu Nô-ê muốn công bố một lời rủa sả, nó sẽ được chỉ về Cham, đứa con đã phạm tội nghịch với cha mình. Nhưng trái lại, ông kể tên Ca-na-an ba lần. Đó là một nguyên tắc trong luật pháp sau này rằng con cháu không thể bị trừng phạt vì tội lỗi của tổ phụ chúng (Phục truyền 24:16 Giê-rê-mi 1:29-30 Ê-xê-chiên 18:1-4) và dườngnhư nguyên tắc này đã áp dụng trong thời các thánh tổ. [83]
Nhìn xuống các thế kỷ, Nô-ê tiên đoán ba lần rằng con cháu của Ca-na-an sẽ trở nên những tôi tớ hèn mọn nhất [84] Dân Ca-na-an đã được liệt kê trong Sáng Thế Ký 10:15-19 chính là các quốc gia mà dân Y-sơ-ra-ên đã chinh phạt và sống trong xứ của họ (Sáng Thế Ký 15:18-21 Xuất Ê-díp-tô 3:8, 17 Dân Số Ký 13:29 Giô-suê 3:10 1Các vua 9:20). Thật khó để mô tả sự đồi bại về đạo đức của xã hội Ca-na-an, đặc biệt là những tập tục tôn giáo của họ, nhưng những luật được ban ra trong Lê-vi Ký 18:1-30 sẽ cho bạn ý niệm nào đó về cách họ sống [85] Đức Chúa Trời đã cảnh cáo dân Do Thái đừng thoả hiệp với lối sống Ca-na-an và phải tiêu diệt mọi điều sẽ cám dỗ họ trong hướng đó (Xuất Ê-díp-tô 34:10-17 Phục truyền 7:1-26).
Hai quan niệm sai lầm phải được làm rõ. Thứ nhất, con cháu của Cham không phải là những người của một chủng tộc da đen nhưng là người da trắng thuộc vùng Cáp-ca , vì vậy không có cơ sở nào trong cái gọi là “sự rủa sả dành cho Ca-na-an” này cho thể chế nô lệ. Thứ hai, mặc cho những lối sống gian ác của mình một số dân Cham này đã xây dựng những nền văn minh rộng lớn và tiên tiến, kể đến dân Ba-by-lôn, dân A-sy-ri và dân Ai Cập. Theo một ý nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói rằng con cháu của Cham đã “phục vụ” cả thế giới qua những tư tưởng và những công cụ mà họ đã khám phá và phát triển. Giống như dân Ca-in (Sáng Thế Ký 4:17-24), những dân tộc này có năng khiếu chế tạo những đồ vật cho thế giới này (Lu-ca 16:8).
Sem sự giàu có (Sáng Thế Ký 9:26).Nô-ê đã không chúc phước cho Sem, ông ngợi khen “Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Sem” NIV). Khi làm vậy, Nô-ê đã qui vinh hiển cho Đức Chúa Trời về điều Ngài sẽ làm cho con cháu của Sem. Nô-ê biết trước các con của ông rằng bất cứ điều gì Sem có sẽ là sự ban cho của Đức Chúa Trời, và bất cứ phước hạnh nào Sem đem đến cho thế giới trong tương lai đều sẽ vì cớ ân điển của Đức Chúa Trời.
Dĩ nhiên, Sem là tổ phụ của Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 11:10-32), người sáng lập dân tộc Hê-bơ-rơ, vì vậy Nô-ê đang nói về dân Do Thái. Việc Chúa sẽ làm giàu dân Do Thái về mặt thuộc linh đã được hứa với Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 12:1-3) và sau đó được Phao-lô giải thích (Rô-ma 3:1-4 Rô-ma 9:1-13). Chính qua Y-sơ-ra-ên mà chúng ta có sự hiểu biết về Đức Chúa Trời chân thật, Lời Đức Chúa Trời được viết ra, và Chúa Cứu Thế, là Chúa Giê-xu Christ, Đấng đã ra đời tại Bết-lê-hem thuộc chi phái Giu-đa. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, “Sem” nghĩa là “tên” và chính dân Y-sơ-ra-ên là dân đã gìn giữ danh của Chúa.
Sem là con trai thứ hai của Nô-ê (Sáng Thế Ký 9:24 Sáng Thế Ký 10:21), nhưng mỗi khi ba người con được kể tên, tên của Sem đứng đầu (Sáng Thế Ký 5:32 Sáng Thế Ký 6:10 Sáng Thế Ký 9:18 Sáng Thế Ký 10:1 1Sử Ký 1:4). Đó là trường hợp khác trong Sáng Thế ký về ân điển của Đức Chúa Trời đã nâng người con thứ hai lên vị trí con đầu lòng. Đức Chúa Trời đã chọn A-bên thay cho Ca-in (Sáng Thế Ký 4:4-5), Y-sác thay cho ích-ma-ên (Sáng Thế Ký 17:15-22), và Gia-cốp thay cho Ê-sau (Sáng Thế Ký 25:19-23). Phao-lô bàn luận chân lý thần học thâm thúy này trong Rô-ma 9:1-33
Gia-phết - sự mở rộng (Sáng Thế Ký 9:27). Ông là tổ phụ của điều mà chúng ta gọi chúng là “các dân ngoại”. Ở đây chúng ta có một sự chơi chữ, vì trong tiếng Hê-bơ-rơ, tên Gia-phết rất gần với từ có nghĩa là “mở rộng”. Dân Cham đã xây dựng những nền văn minh rộng lớn ở phương Đông, và dân Sem đã định cư trong xứ Ca-na-an cùng miền lân cận, nhưng con cháu của Gia-phết đã lan tràn ra nhiều hơn bà con của họ và thậm chí đi đến vùng mà chúng ta gọi là Tiểu Á và Châu Âu.Họ là một dân sẽ gia tăng và đi vào địa phận mới.
Tuy nhiên, mặc dù con cháu của Gia-phết thành công trong những cuộc chinh phạt của họ, khi nói đến những điều thuộc linh, họ sẽ phải nhờ vào Sem. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của Sem và con cháu của Gia-phết sẽ tìm thấy Đức Chúa Trời “ở nơi trại của Sem”. Y-sơ-ra-ên được Đức Chúa Trời chọn làm “sự sáng cho dân ngoại” (Ê-sai 42:6 Ê-sai 49:6), vì “sự cứu rỗi thuộc về dân Do Thái” (Giăng 4:22). Đáng buồn mà nói, phần lớn, dân tộc Y-sơ-ra-ên đã không làm chứng cho dân ngoại để họ có thể tin nơi Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật (Ê-sai 52:5 Rô-ma 2:24).
Khi Chúa Giê-xu đến trên đất, Ngài đã đem sự sáng đến cho dân ngoại (Lu-ca 2:32), và các sứ đồ cùng Hội Thánh đầu tiên đã đem sự sáng đó đến các dân tộc (Công vụ 1:8 Công vụ 13:47). Con cháu của ba con trai Nô-ê đã được đại diện trong Hội Thánh đầu tiên: quan coi kho người Ê-thi-ô-pi, một con cháu của Cham (Công vụ 8:26) [86] Phao-lô, con cháu của Sem (Công vụ 9:1-42), và Cọt-nây cùng gia đình ông, là con cháu của Gia-phết (Công vụ 10:1-48).
Nô-ê đã sống thêm ba thế kỷ rưỡi nữa, và chúng ta có mọi lý do để tin rằng ông đã đồng đi với Đức Chúa Trời và hầu việc Ngài cách trung tín. Theo sự ghi chép ông đã sa ngã một lần, và chắc chắn ông đã ăn năn và Chúa đã tha thứ ông. Trong sự bước đi của mình với Đức Chúa Trời, chúng ta trèo lên những ngọn đồi và đôi lúc chúng ta đi xuống những thung lũng. Như Alexander Whyte thường nói: “Đời sống Cơ Đốc đắc thắng là một chuỗi những khởi đầu mới?
3. Một di sản gia đình (Sáng Thế Ký 10:1-32)
Chương này được biết như “Biểu đồ của các dân tộc” và có một không hai trong biên niên sử cổ đại. Mục đích của chương này được trình bày từ đầu (c.1) và cuối cùng (c.32):để giải thích thể nào đất đã được tái định cư sau Cơn Nước Lụt bởi con cháu của ba con trai Nô-ê. Bạn tìm thấy một sự liệt kê tương tự (nhưng không giống hệt nhau) trong 1Sử Ký 1:1-54.
Hãy chú ý! Trước khi chúng ta xem một số chi tiết của chương này, và sau đó tìm cách rút ra những bài học thuộc linh nào đó từ chương này, chúng ta cần phải chú ý một số lời cảnh cáo.
Thứ nhất, sự liệt kê không phải là một gia phả tiêu biểu chỉ trình bày những tên của con cháu. Tác giả nhắc nhở chúng ta rằng những dân tộc cổ đại này có “thị tộc và ngôn ngữ. . địa phận và quốc gia của họ” (Sáng Thế Ký 10:31 NIV). Nói cách khác, đây là một gia phả cộng với một bản địa đồ và một cuốn sách lịch sử. Chúng ta đang quan sát những biến động của conngười và các dân tộc trong thế giới cổ đại.
Thứ hai, sự liệt kê không hoàn toàn. Ví dụ, chúng ta không tìm thấy Ê-đôm, Mô-áp, và Am-môn được đề cập, nhưng đây là những dân tộc quan trọng trong lịch sử Kinh Thánh. Việc có 70 dân tộc trong bản liệt kê gợi ý rằng sự sắp xếp có thể không tự nhiên một cách cố ý, một cách tiếp cận thường được sử dụng trong việc viết những liệt kê như thế [87] Có 70 người trong gia đình Gia-cốp khi họ đến Ê-díp-tô (Sáng Thế Ký 46:27 Xuất Ê-díp-tô 1:5), và Chúa đã sai 70 môn đồ đi ra giảng đạo (Lu-ca 10:1).
Thứ ba, thật khó để nhận biết một số quốc gia này và cho chúng những cái tên “hiện đại”. Qua bao thế kỷ, các dân tộc có thể thay đổi tên của họ, chuyển đến những vị trí khác, bổ sung ngôn ngữ của họ, và thậm chí thay đổi thành phần chủng tộc qua hôn nhân khác chủng tộc.
Con cháu của Gia-phết (Sáng Thế Ký 10:2-5).Bảy con trai được kể tên và bảy cháu nội chỉ từ hai con trai. Phải chăng điều này có nghĩa là năm con trai kia không có con sinh cho họ, hay đó là bằng chứng khác về cách chọn lựa của người biên soạn?Gia-phết là tổ phụ của các dân ngoại ở phía Bắc và phía Đông xứ Ca-na-an. Đây sẽ là những dân tộc ở xa, những quốc gia đại diện cho “những giới hạn bên ngoài” của nền văn minh đối với thường dân Do Thái thời Cựu Ước (Thi Thiên 72:8-10).
Con cháu của Cham (Sáng Thế Ký 10:6-20). Cúc là Ê-thi-ô-pi cổ đại (không phải quốc gia ngày nay), Mích-ra-im là Ai Cập, và Phút có thể là Li Đi. Chúng ta đã đề cập đến các dân Ca-na-an. Con cháu của Cham ở trong các miền mà chúng ta ngày nay nhận biết là Ai Cập, Palestine, Sudan, Saudi Arabia và Yemen.
Tại thời điểm này trong sự liệt kê, có một “dấu ngoặc” để bàn luận về một người nổi tiếng, Nim-rốt, người sáng lập một đế quốc to lớn (c.8-12). Ông được đề cập vì các quốc gia do ông lập nên đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Y-sơ-ra-ên, và cũng vì một trong những quốc gia đó (Ba-bên) được bàn luận trong phần kế tiếp của Sáng Thế ký.
Trong Kinh Thánh Authorized Version, Nim-rốt được gọi là “một người mạnh mẽ trên đất”và “một thợ săn mạnh mẽ trước mặt Đức Giê-hô-va” (c.8-9). Từ được dịch là “mạnh mẽ” chỉ về một nhà vô địch, người nào đó nổi tiếng về sức mạnh và can đảm. Nó được dịch là “những người mạnh mẽ” trong 1Các vua 1:8 và chỉ về những vệ sĩ đặc biệt của Đa-vít. Hình ảnh của Nim-rốt trong bản văn không phải là hình ảnh về một nhà thể thao săn thú [88], nhưng đúng hơn là hình ảnh một bạo chúa nhẫn tâm chinh phạt con người và lập một đế quốc. Ông đã xây 4 thành ở xứ Si-nê-a (Ba-by-lôn) và 4 thành nữa ở xứ A-si-ri. Cả Ba-by-lôn và A-si-ri đã trở thành kẻ thù của Y-sơ-ra-ên và được Đức Chúa Trời sử dụng để sửa phạt dân sự bất tuân của Ngài. Chúng ta sẽ học nhiều hơn về Ba-by-lôn trong bài học kế tiếp.
Con cháu của Sem (Sáng Thế Ký 10:21-31). Sem thường được đề cập đầu tiên, nhưng ông được liệt kê ở cuối cùng lần này để sự tường thuật có thể đi ngay vào câu chuyện về Ba-bên và gia phả của Áp-ra-ham, có thủy tổ từ Sem (Sáng Thế Ký 11:10). Năm con trai được đề cập nhưng sự nhấn mạnh là về gia đình A-bác-sát vì ông là ông nội của Hê-be, và câu chuyện của ông bắt đầu trong Sáng Thế Ký 12:1-20. [89]
Có “dấu ngoặc” khác trong Sáng Thế Ký 10:25 và bàn luận“sự chia đất” trong thời của Bê-léc, nghĩa là “sự phân chia”. Điều này có lẽ chỉ về sự phân chia và sự phân tán các dân tộc, được mô tả trong chương 11. Tuy nhiên một số học giả nghĩ “sự phân chia”này chỉ về một sự phân chia đặc biệt các lục địa và sự sắp xếp lại những vùng đất đai. [90]
Ý nghĩa. Bản liệt kê này về các tên và các nơi mang theo nó những chân lý thần học quan trọng nào một trong số đó là Giê-hô-va Đức Chúa Trời là Chúa các dân tộc. Đức Chúa Trời đã ban cho các dân tộc di sản của họ (Phục truyền 32:8) và “định trước thì giờ đời người ta, cùng giới hạn chỗ ở” (Công vụ 17:26). Mặc cho những bạo chúa như Nim-rốt, Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của địa lý và lịch sử, Ngài nắm quyền điều khiển. Điều Đức Chúa Trời hứa, Ngài thực hiện, và lời tiên tri của Nô-ê về các con trai ông đã trở thành sự thật.
Thứ hai, mặc cho những khác biệt bên ngoài, mọi dân tộc đều thuộc về một gia đình loài người. Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta đều “từ một huyết” (Công vụ 17:26) và không chủng tộc nào hay dân nào có thể tuyên bố mình cao hơn bất cứ chủng tộc hay dân nào khác. Mặc dù, trong sự định liệu của Ngài, Đức Chúa Trời đã cho phép một số dân tộc thực hiện sự tiến bộ về kinh tế và chính trị lớn hơn những dân tộc khác, những thành tựu của họ không chứng tỏ rằng họ tốt đẹp hơn những dân tộc khác (Châm Ngôn 22:2).
Thứ ba, Đức Chúa Trời có mục đích cho các dân tộc thực hiện. Sự ghi chép trong Sáng Thế Ký 9:24-11:32 cho thấy rõ ràng tuyển dân của Đức Chúa Trời là Y-sơ-ra-ên. Từ chương 12 trở đi, Y-sơ-ra-ên sẽ là sân khấu trung tâm trong câu chuyện. Nhưng Đức Chúa Trời cũng sử dụng Ai Cập, Ba-by-lôn, A-si-ri, Mê-đi Ba-tư Persia và Rô-ma để thực hiện những mục đích của Ngài có liên quan đến dân Do Thái. Đức Chúa Trời có thể sử dụng các vua ngoại đạo như Nê-bu-cát-nết-sa, Si-ru, Đa-ri-út và thậm chí Sê-sa Au-gút-tơ.
Thứ tư, Đức Chúa Trời quan tâm đến mọi dân tộc. Bạn thường tìm thấy trong sách Thi Thiên nhóm từ “mọi xứ” hoặc “mọi dân”. Thi Thiên 66:1-8 và 67 đều trình bày khải tượng toàn cầu rằng mọi dân tộc trên đất sẽ biết Đức Chúa Trời và hầu việc Ngài. Sứ mạng của Hội Thánh để đi khắp thế giới không phải là một tư tưởng đến sau trong Tân Ước; Nó đã được viết trong đường dọc và đường khổ của câu chuyện Cựu Ước.
Cuối cùng, điều được viết trong Sáng Thế Ký 9:1-10:32 hẳn là một sự khích lệ cho dân Y-sơ-ra-ên khi họ chinh phạt Ca-na-an. Họ biết rằng họ là tuyển dân của Đức Chúa Trời và dân Ca-na-an sẽ là tôi tớ của họ. Họ cũng biết rằng Đức Chúa Trời của họ là Chúa của các dân tộc và có thể đánh bại chúng như Ngài muốn. Sự chinh phạt Ca-na-an là một chiến thắng của đức tin nơi những lời hứa của Đức Chúa Trời, giải thích lý do Đức Chúa Trời đã khuyên Giô-suê suy gẫm Lời Đức Chúa Trời (Giô-suê 1:8).
Ba con trai của Nô-ê đã để lại một di sản pha tạp cho thế giới, nhưng Chúa của các dân tộc vẫn đảm trách, và lịch sử vẫn là câu chuyện của Ngài. [91]
11. HÃY CHÚ Ý – ĐỨC CHÚA TRỜI ĐANG HÀNH ĐỘNG (Sáng Thế Ký 11:1-33)
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Nhận định quen thuộc đó hầu như là một lời nói sáo trong tôn giáo. Nhiều người sử dụng nó thậm chí không biết nó có nghĩa gì. Nó được viết ra bởi thầy tu dòng thánh Augustine tên Thomas à Kempis (1380-1471) trong cuốn sách cổ điển của ông “On the Imitation of Christ” (Theo gương Đấng Christ). Nói cách rộng hơn nó có thể là câu châm ngôn “Con người làm điều mình có thể, Đức Chúa Trời làm điều Ngài muốn”. Sa-lô-môn đã sử dụng nhiều từ hơn nhưng nói hay nhất. “Có nhiều kế hoạch trong lòng loài người, nhưng ý chỉ của Đức Giê-hô-va sẽ vững bền” (Châm Ngôn 19:21 NKJV).
Vài chương trong Kinh Thánh minh họa chân lý này rõ hơn Sáng Thế Ký 11:1-33. Khi bạn đọc câu chuyện về Ba-bên và rồi đọc những gia phả tiếp theo, ấn tượng tức thời của bạn là Đức Chúa Trời đang hành động trên thế giới của Ngài và thực hiện những mục đích của Ngài mặc cho những kế hoạch và dự án của con người tội lỗi.
1. Đức Chúa Trời ngăn chặn một cuộc nổi loạn (Sáng Thế Ký 11:1-9)
Bốn sự kiện lớn được ghi lại trong Sáng Thế Ký 1:1-11:33 sự sáng tạo vũ trụ, sự sa ngã của loài người, Cơn Nước Lụt và việc xây tháp Ba-bên có chủ đích. Những chương này bày tỏ rằng nơi đâu loài người bất tuân Đức Chúa Trời, Chúa xét đoán tội lỗi, và rồi tạo môt khởi đầu mới trong ân điển của Ngài.
A-đam và Ê-va đã phạm tội, nhưng Đức Chúa Trời mặc quần áo cho họ và hứa sai một Đấng Cứu Chuộc đến thế gian. Ca-in đã giết A-bên, nhưng Đức Chúa Trời ban Sết để tiếp nối dòng dõi tin kính. Dân Sết đã tạp hôn với dân Ca-in bất kính, và Đức Chúa Trời đã phải xoá sạch đất bằng một cơn nước lụt; nhưng Nô-ê cùng gia đình ông tin Lời Đức Chúa Trời và được cứu. Sau Cơn Nước Lụt, con cháu của ba con trai Nô-ê đã tái định cư trên đất. Nhưng khởi đầu mới với Nô-ê cuối cùng dẫn đến một trong những cuộc nổi loạn ngạo mạn nhất chống lại Đức Chúa Trời được ghi chép bất cứ nơi đâu trong Kinh Thánh.
Sự chống nghịch (Sáng Thế Ký 11:1-4). Dường như những sự kiện trong chương 11 xảy ra trước những sự kiện trong chương 10 và sự tản lạc được mô tả trong chương 10 là hậu quả sự xét đoán của Đức Chúa Trời tại Ba-bên. Có lẽ câu chuyện được đặt ở đây trong Sáng Thế ký để nó có thể dẫn đến gia phả của Sem, rồi dẫn đến gia phả của Áp-ra-ham , người sáng lập dân tộc Hê-bơ-rơ. Như vậy, sự sắp xếp này mang tính văn chương chớ không theo niên đại.
Đức Chúa Trời đã ra lệnh các dân tộc phải sinh sản, thêm nhiều và tản ra khắp đất, nhưng họ quyết định dời đến thành Ba-by-lôn của Nim-rốt và định cư ở đó (Sáng Thế Ký 10:8-12). Sự ra đi này là sự chống nghịch hiển nhiên đối với mệnh lệnh của Đức Chúa Trời để dân sự tản ra. Rõ ràng Nim-rốt muốn họ ở trong các thành của ông và ở dưới sự điều khiển của ông.
“Tháp”do họ xây ở Ba-bên cái được biết như một “tháp đền thờ”. Các nhà khảo cổ đã khai quật nhiều kiến trúc lớn này được xây dựng chủ yếu cho những mục đích tôn giáo. Một tháp đền thờ giống như một kim tự tháp ngoại trừ những tầng kế tiếp nhau được xây thụt vào để bạn có thể đi lên đến đỉnh “trên những bậc cấp”. Ở đỉnh là một điện thờ đặc biệt dành cho một vị thần hay một nữ thần nào đó. Trong việc xây dựng kiến trúc này, con người không phải tìm cách leo lên trời để phế ngôi Đức Chúa Trời; đúng hơn, họ hy vọng rằng vị thần mà họ thờ phượng sẽ từ trời đi xuống gặp họ, kiến trúc và thành được gọi là “Ba-bên” nghĩa là “cửa của các thần”.
Dự án ô nhục này là một sự tuyên chiến ngạo mạn chống lại Chúa, chẳng khác gì cuộc nổi loạn được mô tả trong Thi Thiên 2:1-3. Trước tiên, con người đã chống lại sắc lệnh của Đức Chúa Trời là phải tản ra và định cư trên đất. Có lẽ bị thôi thúc bởi sự sợ hãi cũng như sự kiêu ngạo, họ quyết định xây một thành và một tháp đền lớn rồi ở cùng nhau. Nhưng thậm chí hơn thế, họ muốn tạo một danh cho chính mình để những người khác sẽ khâm phục họ và có lẽ đến gia nhập với họ. Lời tuyên bố mục đích của họ là lời nói dối của ma quỉ trong vườn Ê-đen: “Ngươi sẽ giống như Đức Chúa Trời” (Sáng Thế Ký 3:4 NIV).
Con người đã có được một số điều ủng hộ họ. Họ thật sự là một “tập hợp các dân tộc”, một thứ dân (Sáng Thế Ký 11:6) nói một ngôn ngữ và sử dụng một từ vựng với một từ điển. [92] Họ bị thôi thúc bởi một tinh thần kiêu ngạo và một khao khát trói buộc để tạo một danh cho chính mình. Điều duy nhất không có là sự chấp thuận của Đức Chúa Trời.
Phản ứng của Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 11:5-9). Sử gia Charles Beard đã viết:“Những người mà các thần sẽ tiêu diệt, trước hết họ làm cho say sưa bằng sức mạnh”. [93] Từ Ba-bên đến Bên-xát-xa (Dân Số Ký 5:1-41), và từ Hê-rốt (Công vụ 12:20-25) đến Hitler, Đức Chúa Trời nhiều lần bày tỏ rằng không có lợi ích gì để chống nghịch ý muốn Ngài. “Sự kiêu ngạo đi trước sự bại hoại và tánh tự cao đi trước sự sa ngã” (Châm Ngôn 16:18 NKJV) và Chúa Giê-xu cảnh cáo rằng những ai tôn cao mình sẽ bị hạ phẩm giá (Ma-thi-ơ 23:12).
Đức Chúa Trời trên Thiên Đàng không bao giờ bị lúng túng hay bị tê liệt bởi điều con người làm dưới đất. Lời nói kiêu ngạo của Ba-bên “chúng ta hãy đi lên!” được đáp lại bằng lời nói bình tĩnh trên trời “Chúng ta hãy đi xuống!”. Đấng ngự trên trời sẽ cười, Chúa sẽ nhạo báng chúng nó” (Thi Thiên 2:4). Dĩ nhiên, Đức Chúa Trời không cần phải điều tra để biết điều gì đang xảy ra trong vũ trụ của Ngài, ngôn ngữ được sử dụng chỉ để kịch tính hóa sự can thiệp của Đức Chúa Trời.
Như với A-đam và Ê-va trong vườn (Sáng Thế Ký 3:22-24), sự xét đoán của Đức Chúa Trời tại Ba-bên không chỉ đối phó với những tội lỗi tức thời mà còn giúp ngăn trở những vấn đề trong tương lai. Sự đoàn kết của loài người chỉ sẽ cho con người một ý thức sai lầm về sức mạnh mà sẽ dẫn họ thậm chí vào sự chống nghịch lớn hơn đối với Đức Chúa Trời. Bằng cách làm lộn xộn ngôn ngữ của họ và làm họ tản ra khắp đất, Đức Chúa Trời đã nhân từ tha mạng cho họ và ban cho họ cơ hội trở lại với Ngài. Lẽ ra Ngài có thể hủy diệt những kẻ xây dựng, thành và tháp của họ, nhưng Ngài quyết định để cho họ sống.
Từ “Ba-bên” nghe giống như từ Hê-bơ-rơ “balal” nghĩa là “sự lộn xộn”. Bởi sự xét đoán của Đức Chúa Trời, “cửa của các thần” trở thành “cửa vào sự lộn xộn”. Thay vì tạo cho họ một danh, Đức Chúa Trời cho dự án của họ một tên mới! Trong Hội Thánh Ngài, “Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa sự loạn lạc” (1Cô-rinh-tô 14:33); nhưng trong thế gian, Đức Chúa Trời đôi khi sử dụng sự lộn xộn để khiến con người hạ mình và giữ họ khỏi liên kết chống lại ý muốn của Ngài.
Từ “Sem” nghĩa là “tên” trong tiếng Hê-bơ-rơ, và Áp-ra-ham, một con cháu của Sem, được trước rằng Đức Chúa Trời sẽ làm cho tên của ông trở nên vĩ đại (Sáng Thế Ký 12:2). Con người thế gian cậy nơi sự khôn ngoan và nỗ lực riêng của mình, nhưng họ không đạt được danh tiếng lâu dài. Ai biết tên của bất cứ người nào đã làm việc trên tháp Ba-bên nổi tiếng? Nhưng tên của Áp-ra-ham nổi tiếng khắp thế giới và được dân Do Thái, dân Hồi giáo và Cơ Đốc nhân tôn trọng.Có một sự khác nhau lớn giữa câu nói của loài người” Chúng ta sẽ làm cho danh chúng ta trở nên vĩ đại!” và câu nói của Đức Chúa trời “Ta sẽ làm cho danh của ngươi trở nên vĩ đại!”
Sách Sáng Thế ký nhấn mạnh những cái tên, và trong sách này, Đức Chúa Trời thay đổi nhiều tên. Ví dụ, Áp-ra-ham trở thành Áp-ra-ham, Sa-rai trở thành Sa-ra, Ê-sau trở thành Ê-đôm, Gia-cốp trở thành Y-sơ-ra-ên và v. v. . Đức Chúa Trời gọi một sự việc là gì quan trọng hơn chúng ta gọi nó là gì. Khi Ngài sáng tạo thế giới, Đức Chúa Trời đặt tên cho những sự vật; và Ngài thậm chí bảo A-đam đặt tên cho các loài vật. Từ “Ba-bên” sẽ truyền tải “cửa của các thần” đến rất ít người ngày nay, đa số họ chỉ nghĩ “sự lộn xộn”.
Sự trả lời của chúng ta. Câu chuyện về Ba-bên không phải chỉ là một phần của lịch sử cổ đại, vì Ba-bên và Ba-by-lôn trình bày một thách thức thuộc linh cho mọi tín hữu ngày nay.
Ba-by-lôn cuối cùng đã trở nên một thành phố lớn và là một đế quôc vĩ đại. Trong năm 606-586TC, quân đội Ba-by-lôn đã tấn công và chiếm Vương quốc Giu-đa, đốt đền thờ với thành Giê-ru-sa-lem, và lưu đày hằng ngàn người Do Thái ở Ba-by-lôn trong 70 năm Đức Chúa Trời đã sử dụng dân Ba-by-lôn tàn ác và thờ hình tuợng để trừng phạt dân sự bất tuân của Ngài.
Nhưng trong Kinh Thánh, Ba-by-lôn tượng trưng cho sự kiêu ngạo, sự suy đồi đạo đức và sự thách thức của thế gian nghịch với Đức Chúa Trời. Sự tương phản trong Kinh Thánh là giữa thành Ba-by-lôn trên đất chống nghịch Đức Chúa Trời và thành Giê-ru-sa-lem trên trời qui vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Bạn sẽ cần đọc Giê-rê-mi 50:1-51:64 và Khải Huyền 17:1-19:21 để đánh giá cao những tương phản giữa hai thành này. Ba-by-lôn đại diện cho hệ thống thế gian nghịch với Đức Chúa Trời, thù ghét Chúa Giê-xu Christ và kêu gọi những khao khát hèn hạ của bản tính loài người. Ba-by-lôn trái ngược với Giê-ru-sa-lem trên trời là thành của các thánh đồ (Hê-bơ-rơ 12:18).
Ở Ba-bên đầu tiên, con người muốn xây một cái tháp đụng đến trời, nhưng ở Ba-by-lôn trong Khải Huyền 17:1-18:24 những tội lỗi của Ba-by-lôn chất cao đến trời (Khải Huyền 18:5). Sự hiệp nhất toàn thế giới từ ban đầu mà Nim-rốt khao khát đối với Ba-by-lôn của Sáng Thế ký một ngày nào đó sẽ đạt được bởi hệ thống thế gian bất kính của Sa-tan (c.3, 9, 11, 23). Ba-by-lôn trên đất bị gọi là một dâm phụ, trong khi thành thành từ trời được gọi là vợ của Đấng Christ (Khải Huyền 17:1 Khải Huyền 21:9).
Nhà tâm thần học Naomi H. Rosenblat viết: “Mỗi thế hệ đều xây những cái tháp của chính nó” và bà đã đúng. [94] Dù đây là những tòa nhà chọc trời thật sự (tháp Sear và tháp Tribune ở Chicago, tháp Eiffel ở Paris, tháp Trump ở thành phố NewYork), hoặc những siêu tập đoàn vòng quanh địa cầu, ý tưởng vẫn không đổi: “chúng ta sẽ tạo một danh cho chính mình”. Dân sự Đức Chúa Trời không thể tránh khỏi việc ở giữa thế gian, vì chính ở trong thế gian chúng ta ở đây không phải để xây những cái tháp kiêu ngạo của loài người, chúng ta có sự phục vụ của mình, nhưng chúng ta phải tránh thuộc về thế gian. Chúng ta phải xây dựng Hội Thánh của Chúa Giê-xu Christ. [95]
Điều mà con người không thể đạt được bằng phương tiện của “những cái tháp kiêu ngạo”, Chúa Giê-xu đã đạt được bằng cách chịu chết trên cây thập tự nhục nhã. Tất cả những ai tin Chúa Giê-xu Christ đều hiệp một trong Ngài (Ga-la-ti 3:27) và sẽ cùng dự phần trên Thiên Đàng, không kể chủng tộc, quốc gia, ngôn ngữ hay bộ tộc (Khải Huyền 7:9). Trong khi hệ thống thế gian đang tạo ra sự hòa hợp bên ngoài, bên trong nó đang làm tan rã mọi sự. Điều mà các nhà khoa học xã hội giờ đây đang gọi là “kỹ thuật”, là điều khiển đời sống con người. [96]
Nhưng Thánh Linh đang sử dụng Hội Thánh như một môi giới của sự hòa hợp để đem mọi sự lại trong Chúa Giê-xu Christ (Ê-phê-sô 1:10 2Cô-rinh-tô 5:14-21). Theo một ý nghĩa nào đó, lễ Ngũ Tuần là một sự đảo ngược của Ba-bên, vì những người có mặt ở Giê-ru-sa-lem tại lễ Ngũ Tuần đã nghe những lời ngợi khen Đức Chúa Trời bằng ngôn ngữ của họ (Công vụ 2:1-12). Sẽ đến ngày khi con người từ mọi bộ tộc và quốc gia sẽ thờ phượng Chúa Giê-xu Christ (Khải Huyền 15:4) và sự xét đoán Ba-bên sẽ được chấm dứt (Sô-phô-ni 3:9).
Mỗi người phải thực hiện một sự lựa chọn. Chúng ta sẽ đồng nhất hóa với Ba-by-lôn hay Giê-ru-sa-lem, dâm phụ thế gian hay vợ mới trên trời?
2. Đức Chúa Trời duy trì một gia đình (Sáng Thế Ký 11:10-26)
Đức Chúa Trời đã hứa rằng Ngài sẽ ban một Đấng Cứu Chuộc, “dòng dõi người nữ” (Sáng Thế Ký 3:15) sẽ đánh bại Sa-tan và đem đến sự cứu rỗi. Lời tiên tri của Nô-ê bày tỏ rằng Đức Chúa Trời sẽ chúc phước thế giới qua dòng dõi của Sem, “dân Sem” là tổ phụ của dân Hê-bơ-rơ (Sáng Thế Ký 9:26-27). “Sem tổ phụ của mọi con trai Hê-be” (Sáng Thế Ký 10:21 NIV) và có lẽ từ “Hê-bơ-rơ” đến từ tên “Hê-be”.
Sáng Thế ký cho chúng ta hai gia phả của Sem, (Sáng Thế Ký 10:21-29 Sáng Thế Ký 11:10-26). Gia phả thứ nhất liệt kê tất cả năm con trai và năm cháu nội của ông, nhưng sau đó nó tập trung vào con cháu của A-bác-sát: Sê-lách, Hê-be và hai con trai của Hê-be là Bê-léc và Giốc-tan. Nó liệt kê nhiều con trai của Giốc-tan nhưng bỏ qua con cháu của Bê-léc. Còn gia phả trong chương 11 chọn bên gia đình của Bê-léc và đưa chúng ta đến Áp-ra-ham. Gia phả trong Sáng Thế Ký 5:1-32 đưa chúng ta đi từ A-đam đến Nô-ê, và gia phả trong Sáng Thế Ký 11:1-33 đi từ con trai của Nô-ê là Sem đến Tha-rê và con trai ông là Áp-ra-ham.
Không kể hai phần liệt kê điều có 10 thế hệ, phần liệt kê trong Sáng Thế Ký 11:10-26 khác với phần liệt kê trong chương 5. trước hết, nó không chứa nhóm từ lập lại “và người chết”. Sự nhấn mạnh là cho biết con người được bao nhiêu tuổi lúc sanh con trai đầu lòng của mình. Những người được kể tên trong Sáng Thế Ký 11:10-26 không sống lâu bằng những người được kể tên trong Sáng Thế ký chương 5. Bản liệt kê bắt đầu với 950 năm của Nô-ê và giảm xuống đến 148 năm của Na-cô. Những thế hệ sau Cơn Nước Lụt đã bắt đầu cảm nhận những hậu quả thuộc thể của tội lỗi trong thân thể loài người.
Điều quan trọng về gia phả này là nó ghi lại sự thành tín của Đức Chúa Trời trong việc gìn giữ dân sự Ngài và thực hiện những lời hứa của Ngài. Điều mà đối với chúng ta chỉ là một liệt kê các tên thì đối với Đức Chúa Trời là một “chiếc cầu” từ việc chọn Sem đến việc kêu gọi Áp-ra-ham. Đức Chúa Trời đã đoái hoài đến việc sử dụng con người để giúp thực hiện ý muốn Ngài trên đất, và con người yếu đuối chớ không luôn vâng lời. Nhưng “chiếc cầu” đã được xây dựng và những lời hứa giao ước được duy trì.
3. Đức Chúa Trời mở đầu một dân tộc (Sáng Thế Ký 11:27-32)
Nếu Sáng Thế Ký 1:1-11:32 là một ghi chép về bốn sự kiện chính.Sự sáng tạo, sự sa ngã, Cơn Nước Lụt và sự xét đoán tại Ba-bên thì Sáng Thế Ký 12:50 làsự ghi chép về đời sống của bốn nhân vật chính Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và Giô-sép. Trong phân đoạn này, có 5 người nổi bật: Áp-ra-ham và Sa-ra vợ ông. [97] Tha-rê, cha của Áp-ra-ham, và Na-cô cùng Ha-ran, anh em của Áp-ra-ham. Ha-nan chết và để lại con trai là Lót.
Mục đích của Đức Chúa Trời chính là kêu gọi một người nam cùng vợ người ấy và từ họ xây dựng một gia đình. Từ gia đình đó, Ngài sẽ lập một dân tộc, và từ dân tộc đó, Đức Chúa Trời sẽ chúc phước mọi dân tộc trên đất (Sáng Thế Ký 12:1-3 Sáng Thế Ký 18:18). Từ lúc khởi đầu đến kết thúc, đó là công việc của ân điển Đức Chúa Trời, vì khi Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham và Sa-ra, họ thuộc một gia đình thờ hình tượng (Giô-suê 24:2). Ở U-rơ của xứ Canh-đê và Cha-ran, dân sự thờ thần mặt trăng.
Theo Ê-tiên (Công vụ 7:2), “Đức Chúa Trời vinh hiển” đã hiện ra với Áp-ra-ham và gọi ông đi đến Ca-na-an. Áp-ra-ham chắc đã chia sẻ sứ điệp kỳ lạ này với gia đình ông và cho họ biết rằng ông với Sa-ra sẽ ra đi. Ông được đề nghị chỉ mang Sa-ra đi, và để lại gia đình ông (Sáng Thế Ký 12:1), nhưng mọi người đã đi cùng ông ngoại trừ Na-cô em ông, và dĩ nhiên Ha-ra em ông đã chết. Na-cô cùng vợ là Minh-ca sẽ xuất hiện trở lại trong câu chuyện (Sáng Thế Ký 22:20), nhưng Na-cô là người đã ở lại. Dù ở lâu trong U-rơ thờ hình tượng của xứ Canh-đê, Na-cô có tin sứ điệp mà anh của ông đã trình bày về Đức Chúa Trời vinh hiển chân thật chăng? Chúng ta hy vọng ông đã tin.
Dường như Tha-rê đã tin và đảm trách gia đình cùng những chuyến đi của họ (Sáng Thế Ký 11:31), nhưng Tha-rê là người đã dừng lại. Ông đi 500 dặm, đến thành Cha-ran, ở đó ông định cư và qua đời, có lẽ cuộc hành trình quá sức đối với ông, nhưng đó là kế hoạch của Đức Chúa Trời để Áp-ra-ham và Sa-ra đi theo Ngài mà không cần có gia đình họ. Sự qua đời của Tha-rê khiến họ chỉ còn lại Lót, con trai của Ha-ran là người đã chết ở U-rơ, Lót trở thành người lạc lối, vì cuối cùng ông đã rời Áp-ra-ham và định cư trong thành Sô-đôm gian ác (Sáng Thế Ký 13:10-13 Sáng Thế Ký 14:12 Sáng Thế Ký 19:1).
Điều đáng chú ý về việc Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham và Sa-ra, đó là họ không có con. Áp-ram nghĩa là “cha cao quý”, nhưng ông chưa phải là một người cha gì cả! Họ có vẻ là những ứng viên ít quan trọng nhất để có một gia đình và xây dựng một dân tộc. Nhưng đường lối của Đức Chúa Trời không phải là đường lối của họ (Ê-sai 55:8-9), và bằng cách kêu gọi và chúc phước một cặp vợ chồng son sẻ, Chúa đã bày tỏ sự vĩ đại của quyền năng và vinh hiển Ngài. Áp-ram sẽ được gọi tên là Áp-ra-ham, có nghĩa “cha của nhiều dân tộc”
Hoàn toàn có một sự tương phản giữa đường lối loài người tại Ba-bên và đường lối Đức Chúa Trời trong việc kêu gọi Áp-ra-ham với Sa-ra. Thế gian cậy nơi số đông những kẻ mạnh mẽ để thực hiện những công việc nhưng Đức Chúa Trời chọn hai người yếu đuối và khởi đầu một dân tộc mới. Dân sự tại Ba-bên muốn tạo một danh cho họ, nhưng Đức Chúa Trời hứa làm cho danh Áp-ra-ham trở nên vĩ đại. Những kẻ làm việc tại Ba-bên theo sự khôn ngoan của đời này, nhưng Áp-ra-ham và Sa-ra đã tin cậy Lời Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 11:11-12). Ba-bên được xây dựng bằng năng lực của xác thịt và động cơ của sự kiêu ngạo, nhưng dân tộc Y-sơ-ra-ên được xây dựng bởi ân điển và quyền năng của Đức Chúa Trời bất chấp sự yếu đuối của loài người.
Chúng ta sống trong một thế giới lộn xộn và tinh thầnBa-bên vẫn ở cùng chúng ta. Nhưng Đức Chúa Trời vẫn có những người trung tín còn sót lại đi theo Ngài bởi đức tin và giữ mắt họ luôn hướng về thành trên trời (c.13-16).
Bạn có thuộc về những người còn sót lại đó chăng?
4.Trở về những nền tảng (ôn lại Sáng Thế Ký 1:1-11:32)
Điều mà nền móng ảnh hưởng đối với ngôi nhà, hiến pháp đối với luật pháp nước Mỹ và bản nguyên tố tuần hoàn đối với môn hóa học, thì sách Sáng Thế ký cũng ảnh hưởng như thế đối với Kinh Thánh. Nó mang tính cơ bản. Một sự hiểu biết những chân lý cơ bản của Sáng Thế ký, đặc biệt là các chương 1 đến 11, sẽ cho bạn chìa khoá bạn cần để mở phần còn lại của Kinh Thánh và sống vì vinh hiển của Đức Chúa Trời. Nhưng bạn đừng dừng lại ở chương 1 đến 11, bạn hãy xây dựng trên đó.
Chúng ta hãy ôn lại một số những nền tảng này.
Đức Chúa Trời có thật và chúng ta có thể tin cậy Ngài.
Kinh Thánh mở đầu bằng một tuyên bố rằng Đức Chúa Trời tồn tại: “Ban đầu Đức Chúa Trời” (Sáng Thế Ký 1:1) Sáng Thế ký không trình bày những lý luận triết học nào để chứng minh sự tồn tại của Đức Chúa Trời, Kinh Thánh chỉ đặt Ngài ở khởi đầu mọi sự. Khi bạn mở Kinh Thánh ra, Đức Chúa Trời có ở đó, và Ngài. [98] đã ở đó trước khi Kinh Thánh được viết ra hay thậm chí trước khi vũ trụ được sáng tạo.
Đức Chúa Trời mà bạn gặp trong Sáng Thế Ký 1 đến 11 không chỉ tồn tại đời đời, mà Ngài còn khôn ngoan và quyền năng. Ngài là một Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng Ngài vĩ đại đến nỗi Ngài chỉ cần phán ra để khiến mọi vật xuất hiện. Và sự khôn ngoan của Ngài vĩ đại đến nỗi vật gì Ngài tạo ra thì phải có và nó hoạt động!Từ sinh vật đơn bào bé nhất cho đến dải ngân hà lớn nhất, trong mọi sự sáng tạo, quyền năng và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời được bày tỏ.
Nhưng Đức Chúa Trời vĩ đại này là một Đức Chúa Trời riêng tư, Ngài chú ý đến chúng ta và muốn làm Chúa và bạn của chúng ta!
Ngài là một Đức Chúa Trời thánh khiết sẽ không bỏ qua tội lỗi. Ngài đã xét đoán những tội lỗi riêng của A-đam, Ê-va cùng Ca-in và cũng xét đoán những tội lỗi chung của cư dân trước Cơn Nước Lụt và dân sự tại Ba-bên. Nhưng đồng thời Ngài là một Đức Chúa Trời của tình yêu, Đấng dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Ngài, Ngài muốn giao thông với chúng ta và bày tỏ chính Ngài cho chúng ta. Tội lỗi chúng ta khiến Ngài đau buồn, nhưng trong ân điển của Ngài, Ngài tha thứ những ai tin nơi Ngài và sẽ cho họ cơ hội khác.
Đức Chúa Trời của Sáng Thế ký có một kế hoạch cho nhân loại. Ngài hứa ban một Đấng Cứu Chuộc sẽ đắc thắng Sa-tan và đem đến sự cứu rỗi cho dòng dõi loài người (Sáng Thế Ký 3:15). Ngài đã hoàn thành lời hứa bằng cách sai Giê-xu Christ, Con Đức Chúa Trời để chết trên thập tự giá vì tội của thế gian. Đến khi bạn tin Chúa Giê-xu Christ cứu bạn khỏi tội lỗi của thế gian.Đến khi bạn tin Chúa Giê-xu Christ cứu bạn khỏi tội lỗi của bạn thì bạn mới thật sự biết Đức Chúa Trời.
Chúng ta sống trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời.
Vũ trụ đã được sáng tạo bởi Đức Chúa Trời, chớ không bởi sự tình cờ. Ngài đã dựng nên mọi vật và Ngài giữ cho mọi vật hoạt động. Vũ trụ không phải là một sự tình cờ. Nó là kiệt tác kỳ diệu của một Đức Chúa Trời khôn ngoan và quyền năng Đấng sắp đặt mọi sự theo dự định của ý muốn hoàn hảo của Ngài.
Tính phức tạp của vũ trụ bày tỏ quyền năng cùng sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, và vẻ đẹp của vũ trụ cho thấy tình yêu của Ngài, Ngài có thể tạo ra một thế giới của ảm đạm, nhưng Ngài đã trang trí thế giới của Ngài bằng màu sắc sinh động và cho chúng ta nhiều loại thực vật, động vật và con người để vui hưởng. Ngày này sang ngày khác, đêm này sang đêm nọ, sự sáng tạo bày tỏ vinh hiển Đức Chúa Trời (Thi Thiên 19:1-14).
Vì đây là sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, chúng ta chỉ là những quản gia về những gì Ngài đã ban cho chúng ta. Chúng ta phải sử dụng của cải của sự sáng tạo vì lợi ích của người khác và vì vinh hiển của Đức Chúa Trời, nhớ rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ thưa trình với Đức Chúa Trời chức quản gia của mình. Lãng phí hay bóc lột của cải của sự sáng tạo, hoặc vô ý làm hư vẻ đẹp của sự sáng tạo, là phạm tội với Đức Chúa Trời. Đó không chỉ là một vấn đề về sinh thái học, đó là một vấn đề về thần học, đây là thế giới của Cha chúng ta.
Đức Chúa Trời rời rộng ban cho chúng ta “mọi vật dư dật để hưởng” (1Ti-mô-thê 16:17), và chúng ta phải cảm ơn Ngài vì những món quà của Ngài và sử dụng chúng cách khôn ngoan.
Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời
Những người nam người nữ được dựng nên, không phải được tiến hóa, và họ được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời. Đây là một đặc quyền to lớn và là một trách nhiệm lớn. Mọi em bé được thụ thai đều được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời và có quyền để sống, để ở trong một gia đình yêu thương, để biết Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-xu Christ, và để vui hưởng đời sống có mục đích và được đáp ứng.
Vì Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta một tâm trí để suy nghĩ, chúng ta cần phải đọc Lời Ngài và học chân lý của Ngài. Ngài đã ban cho chúng ta một ý chí để quyết định, và chúng ta phải thực hiện những quyết định khôn ngoan làm đẹp lòng Ngài. Chúng ta có tấm lòng để yêu Ngài, và chúng ta bày tỏ tình yêu này bằng cách giao thông với Ngài và vâng theo ý muốn Ngài. Con người bên trong chúng ta mang tính thuộc linh, và chúng ta cần Đức Chúa Trời ngự bên trong nếu chúng ta cần có sự bình an và thỏa lòng ở bên trong. Augustine đã viết: “Ngài đã dựng nên chúng tôi vì chính Ngài và tấm lòng chúng tôi không yên nghỉ cho đến khi chúng tôi yên nghỉ trong Ngài”.
Việc chúng ta đều được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời nghĩa là chúng ta phải yêu thương và bảo vệ lẫn nhau. Đức Chúa Trời ban sự sống và chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể cất sự sống đi. Ngài đã ban cho chính thể loài người quyền hạn về án phạt tử hình, vì kẻ giết người tấn công chính hình ảnh của Đức Chúa Trời.
Hình ảnh trong chúng ta đã bị tội lỗi phá hỏng, nhưng hình ảnh đó có thể được phục hồi khi chúng ta bước đi với Đức Chúa Trời và đầu phục Thánh Linh Ngài (2Cô-rinh-tô 3:18). Vì Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta, Ngài biết điều gì tốt nhất cho chúng ta, và Ngài đã ban cho chúng ta Lời Ngài làm sách hướng dẫn cho đời sống chúng ta. Đó là “sách về những hoạt động” và chúng ta phải làm quen với nó. Khi mọi đều khác thất bại, hãy đọc những chỉ dẫn.
Sự vâng lời là chìa khóa cho sự ích lợi, sự vui mừng và phước hạnh.
Tổ phụ đầu tiên của chúng ta đã bất tuân Lời Đức Chúa Trời và đẩy toàn bộ dòng dõi loài người vào tội lỗi. Ca-in đã bất tuân va trở thành một kẻ lang thang. Nô-ê đã vâng lời và Đức Chúa Trời cứu ông của gia đình ông khỏi sự hủy diệt và chúc phước cho họ sau khi Cơn Nước Lụt chấm dứt. Mỗi khi chúng ta bất tuân Đức Chúa Trời, chúng ta phá vỡ sự giao thông với Ngài và đánh mất niềm vui về sự hiện diện của Ngài. Sự vâng lời là chìa khóa cho phước hạnh; sự bất tuân là con đường đi đến sự bất hạnh và sự trừng phạt.
Sa-tan có thật, nhưng là một kẻ thù bị đánh bại.
Sa-tan không tồn tại đời đời; Nó là một tạo vật. Nó không toàn tri, toàn năng hay hiện diện mọi nơi mọi lúc. Nó bị giới hạn, nhưng nó muốn bạn nghĩ nó vĩ đại như Đức Chúa Trời và đáng được sự vâng lời của bạn. Sa-tan rất mạnh mẽ và rất xảo quyệt, và trong chính mình, chúng ta không đồng sức với nó.
Sa-tan muốn làm chúa trong đời sống bạn; Nó cần sự thờ phượng và phục vụ của bạn. Nó cám dỗ chúng ta bằng cách chất vấn Lời Đức Chúa Trời: “Phải chăng Đức Chúa Trời đã thật sự phán?” Nó hứa khiến chúng ta trở nên giống như Đức Chúa Trời, nhưng nó không bao giờ giữ lời hứa đó. Bước đầu tiên để chiến thắng Sa-tan là đừng lắng nghe những đề nghị của nó hay tin những lời hứa của nó. Chúng ta cần biết và tin chân lý của Đức Chúa Trời nếu chúng ta muốn phát hiện và đánh bại những lời nói dối của ma quỉ.
Sa-tan đã bị Chúa Giê-xu Christ đánh bại, và qua Đấng Christ, chúng ta có thể tuyên bố sự chiến thắng (Cô-lô-se 2:15 Rô-ma 16:20 1Cô-rinh-tô 10:13).
Có một việc như thế là tội lỗi.
Thế gian có thể gọi đó là một sự ngớ ngẩn, một sai lầm, một sự yếu đuối hay một tai nạn, nhưng nếu nói là sự bất tuân ý muốn Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời gọi đó là tội lỗi. Tội lỗi là nghiêm trọng vì nó dẫn đến sự chết và sự xét đoán. Giống như bất cứ người Cha yêu thương nào, Đức Chúa Trời đau buồn khi con cái Ngài phạm tội, và Đức Chúa Trời xét đoán tội lỗi. Nhưng Đức Chúa Trời cũng tha thứ và ban sự thanh tẩy chúng ta cần.
Khi chúng ta phạm tội, khuynh hướng của chúng ta là bỏ chạy và tìm cách lẩn trốn, nhưng đây là điều tệ hại nhất chúng ta có thể làm. Bạn không thể trốn khỏi Đức Chúa Trời. Điều duy nhất để làm là ăn năn, xưng nhận tội và cầu xin sự tha thứ của Ngài. Đức Chúa Trời thật sự ban cho chúng ta cơ hội khác để vâng lời Ngài và được chúc phước.
Giới tính là tư tưởng của Đức Chúa Trời và Ngài biết cách nó phải được sử dụng tốt nhất.
Đức Chúa Trời đã dựng nên những con người đầu tiên “người nam và người nữ”. Ngài làm điều đó không chỉ để họ có thể sinh sản và duy trì dòng lõi loài người, nhưng cũng để họ có thể học cách yêu và cùng vui hưởng, khám phá mối liên hệ yêu thương của mình với Chúa. Ý định ban đầu của Ngài là một người nam dành cho một người nữ trọn một đời người.
Kinh Thánh không phải là: sổ tay về giới tính”, nhưng nó thật sự làm rõ một số sự việc. Rõ ràng là những tội lỗi về tình dục gây tàn phá không chỉ đối với thân thể và con người bên trong, nhưng cũng đối với người khác, đặc biệt là người bạn đời và gia đình. Đức Chúa Trời đã dựng nên người nam và người nữ cho nhau;bất kỳ sự kết hợp nào khác đều ngoài ý muốn Đức Chúa Trời, cho dù xã hội và tòa án có thể nói gì. Đức Chúa Trời đã tạo ra hôn nhân, và tình dục ngoài sự ràng buộc yêu thương của hôn nhân là sai trật.
Mọi con người đều được dựng nên từ một huyết.
Đức Chúa Trời đã phân tán con cháu của Nô-ê bằng những ngôn ngữ và dân tộc khác nhau, nhưng họ đều là con cháu của A-đam và Ê-va. Bởi sự định liệu của Đức Chúa Trời, một số quốc gia và chủng tộc đã thực hiện những tiến bộ nhanh chóng trên thế giới này hơn những quốc gia khác, nhưng điều này không có nghĩa những quốc gia tiến bộ tốt lành hơn những người khác. Chúng ta thuộc một huyết, và không chủng tộc nào có thể tuyên bố mình cao hơn chủng tộc khác.
Đức Chúa Trời đã định rằng con người sẽ làm việc. Việc làm không phải là một dạng hình phạt. Đúng hơn, nó là một cơ hội để hợp tác với Đức Chúa Trời trong việc chăm sóc sự sáng tạo của Ngài.
Y-sơ-ra-ên là tuyển dân của Đức Chúa Trời.
Điều này không có nghĩa họ tốt hơn những dân khác, nhưng chỉ có nghĩa là họ có sự kêu gọi của Đức Chúa Trời và vì vậy có một trách nhiệm lớn hơn trên thế giới này. Đức Chúa Trời đã chọn họ vì Ngài yêu họ, chớ không phải vì giá trị thật của họ (Phục truyền 7:6-11). Đức Chúa Trời đã kêu gọi Y-sơ-ra-ên để đem phước hạnh đến cho cả thế giới, và vì Y-sơ-ra-ên chúng ta có sự hiểu biết về Đức Chúa Trời chân thật, lời Đức Chúa Trời được ghi chép, và hơn hết là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Không Cơ Đốc nhân nào được lầm lỗi về chủ nghĩa bài Do Thái trong tư tưởng, lời nói hay hành động.
Đức Chúa Trời không thay đổi và luôn nắm quyền điều khiển.
Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngôi và luôn biết Ngài đang làm gì. Ngài nhẫn nhục đối với tội nhân, nhưng cuối cùng Ngài xét đoán tội lỗi và ban thưởng người công bình. Do đó là ngôi sao xa nhất hay nguyên tử nhỏ nhất, Đức Chúa Trời biết mọi vật ở đâu và mọi vật đang làm gì, và mọi vật Ngài dựng nên cuối cùng sẽ thực hiện ý muốn của Ngài trên đất này.
Đức Chúa Trời đã đặt những định luật trong vũ trụ này, mà nếu chúng ta vâng theo, chúng làm lợi ích cho ta, nhưng nếu chúng ta không vâng theo chúng, chúng gây bất lợi cho ta. Khoa học chỉ đang suy nghĩ những tư tưởng của Đức Chúa Trời sau Ngài, khám phá những định luật này và đưa chúng vào hoạt động. Đấng Sáng Tạo có quyền “phá vỡ” những định luật của Ngài và làm những phép lạ.
Mối liên hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời được đặt nền tăng trên đức tin.
“Nhưng không có đức tin thì không thể làm đẹp ý Ngài, vì kẻ đến với Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và tin rằng Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ chuyên tâm tìm kiếm Ngài” (Hê-bơ-rơ 11:6).
Chúng ta sống bởi những lời hứa, không phải bởi những lời giải thích.
Sống cho Đức Chúa Trời là đời sống đáng thưởng nhất
Đức Chúa Trời có mục đích khác nhau cho mỗi người trong chúng ta thực hiện, và Ngài giúp chúng ta có thể thực hiện được mục đích đó khi chúng ta tin Lời Ngài và vâng theo ý muốn Ngài. Bất cứ điều gì Ngài bảo chúng ta làm đều có thể làm được vì vinh hiển Đức Chúa Trời. Mặc dù có những lúc dường như người công bình chịu hoạn nạn và kẻ ác thành công, nhưng cuối cùng người công bình sẽ được phần thưởng đời đời của mình và kẻ ác nhận hình phạt đời đời của họ.
Đời sống Cơ Đốc nhân không phải lúc nào cũng là đời sống dễ chịu nhất, nhưng đó là đời sống thỏa lòng nhất và đáng thưởng nhất.
Đây chỉ là một số nền tảng được tìm thấy trong Sáng Thế ký đoạn 1 đến 11, được minh họa và giải thích trong phần còn lại của Kinh Thánh. Khi bạn dâng đời sống mình cho Đấng Christ và xây dựng trên những chân lý căn bản này, bạn đang xây trên một nền tảng vững chắc. Không quan tâm đến những nền tảng này là đang xây trên cát và xây dựng một đời sống sẽ không tồn tại qua những cơn bão của đời sống hoặc sự xét đoán cuối cùng từ Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu kêu gọi tất cả chúng ta trở về với những nền tảng. Hãy đọc và suy gẫm Ma-thi-ơ 7:21-27.
Sáng Thế Ký 11:27-32; xem giải nghĩa Sáng Thế Ký 12:1-3
12. MỘT KHỞI ĐẦU MỚI (Sáng Thế Ký 11:27-12:9)
Sáng Thế Ký 11:27-32; xem giải nghĩa Sáng Thế Ký 12:1-3
George Bernard Shaw đã châm biếm: “Nếu những hành tinh khác có cư dân, vậy chúng chắc sẽ sử dụng trái đất làm viện tâm thần của chúng”.
Chúng ta có thể cười nhận định đó, nhưng nó nhắc nhở chúng ta về một sự thật đáng buồn. Thế giới ở trong một tình trạng hỗn độn, và nó dường như không trở nên tốt đẹp hơn gì cả. Có gì không ổn?
Tất cả đều truy nguyên từ những sự kiện được ghi lại trong sách Sáng Thế ký. Ngoại trừ câu chuyện trong chương 1 và 2, 11 chương đầu của Sáng Thế ký ghi lại những thất bại này đến thất bại khác của con người, điều mà ngày nay vẫn lặp lại. Người nam và người nữ đầu tiên đã bất tuân Đức Chúa Trời và bị đuổi ra khỏi vườn (chương 3). Ca-in giết A-bên em mình và nói dối về điều đó (chương 4). Loài người đã trở nên quá sa đọa đến nỗi Đức Chúa Trời tẩy sạch trái đất bằng một cơn nước lụt (chương 6-8). Nô-ê say rượu và lõa thể trước mặt Cham con trai ông (chương 9). Trong sự coi thường Đức Chúa Trời, con người đã xây một thành và một tháp; và Đức Chúa Trời phải giáng sự lộn xộn để chấm dứt sự chống nghịch (chương 10).
Sự bất tuân, giết người, lừa dối, say sưa, lõa lồ và chống nghịch ngày càng xảy ra nhiều hơn. Nếu bạn là Đức Chúa Trời, bạn sẽ làm gì với những tội nhân này, là những con người bạn đã dựng nên theo hình ảnh mình?
Bạn có thể đáp “có thể tôi sẽ hủy diệt họ!” nhưng đó không phải là điều Đức Chúa Trời làm. Ngược lại, Ngài kêu gọi một người là Áp-ra-ham và vợ ông rời quê hương để đến một xứ mới, hầu cho Ngài có thể ban cho nhân loại một khởi đầu mới. Bởi sự kêu gọi của Đức Chúa Trời cùng đức tin vâng lời của mình, Áp-ra-ham và Sa-ra (tên ban đầu của họ là Áp-ram và Sa-rai, nhưng chúng ta sẽ theo gương Ê-tiên trong Công vụ 7:2 và sử dụng những tên mới (Sáng Thế Ký 17:1-26) vì những tên đó quen thuộc hơn. ) cuối cùng đã cho thế giới dân tộc Do Thái, Kinh Thánh và Chúa Cứu Thế. Chúng ta sẽ ở đâu hôm nay nếu Áp-ra-ham và Sa-ra không tin cậy Đức Chúa Trời?
Hãy xem xét những yếu tố có liên quan trong từng trải của họ.
1. Một sự kêu gọi (Sáng Thế Ký 12:1a)
Khi Đức Chúa Trời kêu gọi. Sự cứu rỗi đến vì Đức Chúa Trời kêu gọi trong ân điển và tội nhân đáp ứng bằng đức tin (Ê-phê-sô 2:8-9 2Tê-sa-lô-ni-ca 2:13-14). Đức Chúa Trời đã kêu gọi Áp-ra-ham ra khỏi sự thờ hình tượng (Giô-suê 24:2). Khi ông ở U-rơ xứ Canh-đê (Sáng Thế Ký 11:28, 31 Sáng Thế Ký 15:7 Nê-hê-mi 9:7), một thành được dâng hiến cho Nannar, thần mặt trăng. Áp-ra-ham không biết Đức Chúa Trời chân thật, và chẳng làm gì để xứng đáng biết Ngài, nhưng Đức Chúa trời nhân từ đã gọi ông: “Các ngươi đã không chọn ta, nhưng ta đã chọn các ngươi” (Giăng 15:16).
Áp-ra-ham được 75 tuổi thì Đức Chúa Trời kêu gọi ông, vì vậy tuổi tác không nhất thiết là một trở ngại cho đức tin. Ông tin cậy Đức Chúa Trời trong 100 năm (Sáng Thế Ký 25:7) và từ kinh nghiệm này, chúng ta ngày nay có thể học cách bước đi bởi đức tin và sống để làm đẹp lòng Chúa.
Áp-ra-ham cưới Sa-ra, em cùng cha khác mẹ của ông (Sáng Thế Ký 20:12)và họ không có con. Nhưng Đức Chúa Trời đã sử dụng họ để lập một dân tộc lớn!“Ta đã gọi chỉ một mình người (Áp-ra-ham), chúc phước người và làm cho người thêm nhiều” (Ê-sai 51:12). Tại sao Đức Chúa Trời kêu gọi một cặp vợ chồng không hứa hẹn cho một nhiệm vụ quan trọng như thế? Phao-lô cho chúng ta câu trả lời trong 1Cô-rinh-tô 1:26-31.
Đức Chúa Trời đã kêu gọi Áp-ra-ham sau khi dân ngoại thất bại và quay lưng với Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật. Tiến trình thoái hóa được mô tả trong Rô-ma 1:18-32. Con người từ ban đầu đã biết Đức Chúa Trời chân thật, nhưng con người không làm vinh hiển Ngài hoặc dâng lời tạ ơn Ngài vì sự chu cấp nhân từ của Ngài. Con người đã đặt hình tượng thay cho Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật. Sự thờ hình tượng đã dẫn đến sự đồi bại và xấu xa, và chẳng bao lâu thế giới dân ngoại đồi bại đến nỗi Đức Chúa Trời đã phải từ bỏ họ (c.24, 26, 28). Sau đó, Ngài kêu gọi Áp-ra-ham, người Do Thái đầu tiên và tạo một khởi đầu mới.
Cách Đức Chúa Trời kêu gọi “Đức Chúa Trời vinh hiển đã hiện ra cùng tổ chúng ta là Áp-ra-ham” (Công vụ 7:2). Cách Đức Chúa Trời hiện ra cùng Áp-ra-ham, chúng ta không được cho biết, nhưng đó là sự giaothông đầu tiên trong bảy sự giao thông với Áp-ra-ham được ghi lại trong Sáng Thế ký. Sự mạc khải về vinh hiển của Đức Chúa Trời đã cho Áp-ra-ham thấy sự hư không và dại dột của việc thờ hình tượng ở U-rơ. Ông muốn thờ phượng một hình tượng chết thì ông gặp Đức Chúa Trời hằng sống! 1Tê-sa-lô-ni-ca 1:9-10 2Cô-rinh-tô 4:6 mô tả kinh nghiệm này về sự cứu rỗi.
Nhưng Đức Chúa Trời cũng phán với Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 12:1-3) và Lời Ngài đem lại phép lạ của đức tin. “Như vậy, đức tin đến bởi sự nghe, và sự nghe đến bởi Lời Đức Chúa Trời” (Rô-ma 10:17). Đó là một sự kêu gọi để biệt riêng ông khỏi sự đồi bại quanh ông, và Áp-ra-ham đã vâng lời bằng đức tin (Hê-bơ-rơ 11:8). Đức tin thật được đặt cơ sở trên Lời Đức Chúa Trời và dẫn đến sự vâng lời. Đức Chúa Trời không thể chúc phước và sử dụng Áp-ra-ham với Sa-ra nếu họ không ở trong vị trí Ngài chỉ định (2Cô-rinh-tô 6:14-7:1).
Tội nhân hư mất ngày nay dường như không nhận một sự mạc khải đặc biệt về vinh hiển của Đức Chúa Trời như Áp-ra-ham và Sa-ra đã nhận.Nhưng họ có thể thấy sự vinh hiển của Ngài trong đời sống của của dân sự Ngài (Ma-thi-ơ 5:16) và nghe Lời Ngài về đức tin khi dân sự Chúa chia sẻ chứng cớ của họ. Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham trực tiếp, nhưng ngày nay chúng ta nghe chân lý vê sự cứu rỗi qua sự làm chứng của dân sự Ngài (Công vụ 1:8).
Lý do Đức Chúa Trời kêu gọi. Có ít nhất 3 lý do Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham và Sa-ra. Trong tình yêu Ngài, Đức Chúa Trời quan tâm về sự cứu rỗi dành cho họ.Vì vậy, Ngài đã bày tỏ vinh hiển của Ngài và chia sẻ những lời hứa nhân từ của Ngài. Nhưng thậm chí xa hơn sự cứu rỗi cá nhân của họ là mục đích của Đức Chúa Trời trong việc chúc phước cả thế giới. Điều này đã được thực hiện khi Đức Chúa Trời sai Con Ngài vào thế gian qua dân tộc Do Thái Đấng Christ đã chịu chết vì tội lỗi thế gian (1Giăng 2:2 1Giăng 4:14) và muốn Hội Thánh Ngài rao tin mừng cho cả thế giới (Mác 16:15).
Nhưng có một lý do thứ 3: đời sống của Áp-ra-ham là một tấm gương cho tất cả các Cơ Đốc nhân muốn bước đi bằng đức tin. Áp-ra-ham đã được cứu bởi đức tin (Sáng Thế Ký 15:6 Rô-ma 4:1-5 Ga-la-ti 3:6-14) và sống bởi đức tin (Hê-bơ-rơ 11:8-19), và sự vâng lời của ông là chứng cớ đức tin của ông (Gia-cơ 2:14-26). Áp-ra-ham đã vâng lời khi ông không biết ở đâu (Hê-bơ-rơ 11:8-10), thế nào (c.11-12), khi nào (c.13-16) hay tại sao (c.17-19), và chúng ta cũng phải như thế.
Áp-ra-ham và Sa-ra không trọn vẹn, nhưng cách ăn ở của họ nói chung, được biểu thị bởi đức tin và sự trung tín. Khi phạm tội, họ khổ sở vì điều đó; và Chúa luôn sẵn sàng tha thứ khi họ ăn năn. George Morrison đã nói: “Đời sống Cơ Đốc đắc thắng là một chuỗi những khởi đầu mới”. Khi bạn nghiên cứu đời sống của Áp-ra-ham và Sa-ra, bạn sẽ biết đức tin là gì và cách để bước đi bằng đức tin. Bạn sẽ khám phá điều đó, khi bạn tin cậy Chúa, không sự thử nghiệm nào không thể xảy ra và không có thất bại nào kéo dài mãi.
2. Một giao ước (Sáng Thế Ký 12:1-3)
Đức tin không đặt cơ sở trên cảm xúc, dù những cảm xúc chắn chắn có (Hê-bơ-rơ 11:7). Đức tin thật được đặt cơ sở trên Lời Đức Chúa Trời (Rô-ma 10:17). Đức Chúa Trời đã phán với Áp-ra-ham và cho ông biết điều Ngài sẽ làm cho ông và qua ông nếu ông tin cậy và vâng lời. Joseph Parker viết “những đời sống cao trọng được rèn luyện bởi những lời hứa cao trọng” và điều này chắc chắn đúng với Áp-ra-ham và Sa-ra. Giao ước của Đức Chúa Trời đã cho họ đức tin và sức mạnh họ cần cho cuộc hành hương cả đời họ.
Chúng ta được cứu không phải bằng cách lập những lời hứa trước mặt Đức Chúa Trời, chúng được cứu bởi tin những lời hứa của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta. Chính Đức Chúa Trời là Đấng bởi sự nhân từ đã ban giao ước Ngài cho Áp-ra-ham và ông đã đáp ứng bằng đức tin và sự vâng lời (Hê-bơ-rơ 11:8-10). Cách bạn đáp ứng với những lời hứa của Đức Chúa Trời quyết định điều Đức Chúa Trời sẽ làm trong đời sống bạn.
Kinh Thánh ghi lại nhiều giao ước của Đức Chúa Trời, bắt đầu với lời hứa về Đấng Cứu Chuộc trong Sáng Thế Ký 3:15 và đạt đến đỉnh điểm bằng giao ước mới bởi huyết của Chúa Giê-xu Christ (Lu-ca 22:20 Hê-bơ-rơ 8:1-13). TừHê-bơ-rơ được dịch là “giao ước” có nhiều ý nghĩa: 1. ăn với , gợi ý mối thông công và sự thỏa thuận, 2. cột hoặc cùm , có nghĩa là sự cam kết, và 3. được chia phần, gợi ý sự chia sẻ. Khi Đức Chúa Trời lập một giao ước, Ngài bước vào một thỏa thuận cam kết ban điều Ngài hứa. Đó hoàn toàn là một hành động của ân điển.
Đức Chúa Trời không trình bày cho Áp-ra-ham những lý do hay những lời giải thích, Ngài chỉ ban cho ông những lời hứa: “Ta sẽ chỉ cho ngươi…. Ta sẽ làm cho ngươi… Ta sẽ ban phước cho ngươi… Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi” (Sáng Thế Ký 12:1-2). Đức Chúa Trời hứa chỉ cho ông một xứ, làm cho ông trở thành một dân tộc lớn, và sử dụng dân tộc đó để ban phước cho cả thế giới. Đức Chúa Trời ban phước cho chúng ta, để chúng ta có thể làm một phước hạnh cho người khác, và mối quan tâm lớn của Ngài là cả thế giới có thể được chúc phước. Mệnh lệnh truyền giáo của Hội Thánh không bắt đầu từ Giăng 3:16 hay Ma-thi-ơ 28:18-20. Nó bắt đầu bằng giao ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham.Chúng ta được chúc phước để chúng ta có thể làm một phước hạnh
Hãy chú ý sự tương phản giữa Sáng Thế Ký 11:1-9 và Sáng Thế Ký 12:1-3. Ở Ba-bên, con người đã nói: “Chúng ta hãy!” nhưng với Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời phán: “Ta sẽ”. Ở Ba-bên con người muốn tạo một danh cho mình, nhưng chính Đức Chúa Trời là Đấng đã khiến tên của Áp-ra-ham trở nên cao trọng. Ở Ba-bên, những người làm việc tìm cách hiệp con người lại, chỉ để phân tán họ, nhưng qua Áp-ra-ham, cả thế giới đã được chúc phước, và mọi tín hữu được hiệp nhất trong Chúa Giê-xu Christ. Dĩ nhiên, lễ Ngũ Tuần (Công vụ 2:1-47) là “sự đảo ngược” của Ba-bên, nhưng lễ Ngũ Tuần không thể xảy ra nếu không có giao ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham (Ga-la-ti 3:14).
Hẳn dường như không thể tin được đối với Áp-ra-ham và Sa-ra rằng Đức Chúa Trời sẽ chúc phước cả thế giới qua một cặp vợ chồng già không con, nhưng đó chính là điều Ngài đã làm. Từ họ xuất hiện dân tộc Y-sơ-ra-ên, và từ Y-sơ-ra-ên xuất hiện Kinh Thánh và Chúa Cứu Thế. Đức Chúa Trời đã tái khẳng định giao ước này với Y-sác (Sáng Thế Ký 26:4) cùng Gia-cốp (28:14) và thực hiện điều đó trong Đấng Christ (Công vụ 3:25-26). Trong những năm sau đó, Đức Chúa Trời đã mở rộng những yếu tố khác nhau của giao ước này, nhưng Ngài ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra chân lý đủ để họ tin Ngài và khởi đầu bằng đức tin.
3. Một sự thỏa hiệp (Sáng Thế Ký 12:1-3) (Sáng Thế Ký 11:27-32 Sáng Thế Ký 12:4)
Những bước đầu tiên của đức tin không phải lúc nào cũng là những bước phi thường, điều này giải thích lý do Áp-ra-ham đã không vâng lời Đức Chúa Trời hoàn toàn. Thay vì rời gia đình như ông đã được ra lệnh, Áp-ra-ham mang theo cha và Lót cháu ông ông rời U-rơ, và rồi ông ở tại Cha-ran cho đến khi cha ông chết.
Bất cứ điều gì bạn mang theo mình từ đời sống cũ vào đời sống mới thì có thể tạo ra những vấn đề. Tha-rê, cha của Áp-ra-ham, đã ngăn trở Áp-ra-ham vâng lời Chúa hoàn toàn, và Lót đã tạo ra những vấn đề nghiêm trọng cho Áp-ra-ham mãi đến cuối cùng họ phải đồng ý chia tay. Áp-ra-ham và Sa-ra đã mang theo mình một thỏa thuận tội lỗi từ U-rơ (Sáng Thế Ký 20:13), và nó đưa họ vào rắc rối hai lần (Sáng Thế Ký 12:10-20 Sáng Thế Ký 20:1-18).
Đời sống đức tin đòi hỏi sự phân rẽ hoàn toàn khỏi điều gì ác và sự dâng hiến hoàn toàn cho điều gì thánh khiết (2Cô-rinh-tô 6:14-7:1). Khi bạn học về đời sống của Áp-ra-ham, bạn sẽ khám phá rằng ông thường bị cám dỗ để thỏa hiệp và đôi lúc ông đã đầu hàng. Đức Chúa Trời thử nghiệm chúng ta để xây dựng đức tin chúng ta và đem đến điều tốt nhất trong chúng ta, nhưng ma quỉ cám dỗ chúng ta để phá hoại đức tin chúng ta và đem đến điều tệ hại nhất trong chúng ta.
Khi bạn bước đi bằng đức tin, bạn chỉ dựa nơi một mình Đức Chúa Trời: Lời Ngài, tính cách Ngài, ý chí Ngài và quyền năng Ngài.Bạn không cô lập mình khỏi gia đình và bạn bè, nhưng bạn không còn xem họ là tình yêu trước hết hay bổn phận trước hết của mình (Lu-ca 14:25-27). Tình yêu của bạn đối với Đức Chúa Trời mạnh mẽ đến nỗi nó khiến cho tình yêu gia đình có vẻ như sự ghét bỏ khi so sánh! Đức chúa Trời kêu gọi “một mình” chúng ta (Ê-phê-sô 51:1-2) và chúng ta không nên thỏa hiệp.
4. Một sự phó thác (Sáng Thế Ký 12:4-9)
Mục sư Thanh giáo thế kỷ 17, Thomas Fuller, nói rằng cả nhân loại được chia thành 3 giai cấp: người có ý định, người nỗ lực và người thực hiện. Tha-rê có thể là người có ý định, nhưng ông không bao giờ thực hiện nó trong Đất Hứa. Lót là người nỗ lực đến một thời điểm nào đó, nhưng ông thất bại vì ông không thể bước đi bằng đức tin. Áp-ra-ham và Sa-ra là những người thực hiện vì họ tin cậy Đức Chúa Trời thực hiện điều Ngài hứa (Rô-ma 4:18-21).Họ phó thác đời sống và tương lai mình cho Đức Chúa Trời, vâng theo điều Ngàibảo, và chấp nhận mọi điều Đức Chúa Trời hoạch định cho họ.
Đức tin đem chúng ta ra đi (Sáng Thế Ký 12:4-5). Có thể chính tình yêu của một người con đối với cha già của mình đã khiến Áp-ra-ham trì hoãn (Lu-ca 9:59-62) nhưng cuối cùng đã đến ngày ông và Sa-ra phải rời Cha-ran để đến xứ Đức Chúa Trời đã chọn cho họ. Đức tin và sự hai lòng không bao giờ đi đôi với nhau (Gia-cơ 1:6-8) và bạn không thể hầu việc hai chủ (Ma-thi-ơ 6:24). Đức tin đòi hỏi sự phó thác.
Đôi khi tôi có cảm tưởng rằng sự phó thác là một mặt hàng đang biến mất trên thế giới ngày nay. Nhiều người không muốn phó thác mình cho công việc, những lời thề hứa hôn nhân của họ hay đối với nhau. “Tôi sẽ làm việc của tôi theo cách của tôi!” là thực chất của triết lý ngày nay, và thái độ này đã xâm nhập Hội Thánh. Nhiều tín hữu sẽ không phó thác mình cho việc phục vụ trong một Hội Thánh nhưng đi từ Hội Thánh này đến Hội Thánh khác khi các mục sư và những chương trình âm nhạc thay dổi. “Tạm thời” là một từ chính ngày nay: những giáo viên Trường Chủ nhật và những người đỡ đầu thanh niên tạm thời, những thành viên ban hát tạm thời, những thuộc viên Hội Thánh tạm thời và thậm chí những mục sư tạm thời.
Vance Havner đã nói: “Đó là một ngày của những tuyên bố đang biến mất. Những giao ước Hội Thánh được tìm thấy ở cuối sách Thánh ca, nhưng chúng đã phai mờ trong đời sống của hầu hết các tín hữu của chúng ta, nếu chúng đã bao giờ có một ý nghĩa nào gì. Những tuyên bố về sự dâng hiến cá nhân đã trở nên không rõ rệt, và cần được đổi mới. Đó là một ngày của những tuyên bố đã phai mờ.
Hôm nay chúng ta sẽ ở đâu nếu Áp-ra-ham và Sa-ra đã không dâng mình, để vâng lời Chúa bằng đức tin? Chúng ta sẽ ở đâu nếu các thế hệ Cơ Đốc nhân đi trước không dâng mình hoàn toàn cho Chúa ? Chúng ta những người đến sau không nên xem nhẹ những điều mà các thế hệ trước đã trả một giá lớn để đạt được. Mong rằng thế hệ sau nhìn lại chúng ta và nói: “Họ đã trung tín!”
Đức tin đem chúng ta vào (Sáng Thế Ký 12:6-8). Đức Chúa Trời đem chúng ta ra để Ngài có thể đem chúng ta vào (Phục truyền 6:23). Chúng ta không biết gì về cuộc hành trình dài từ Cha-ran đến Ca-na-an, vì chính nơi đến là quan trọng. Những thế kỷ sau đó, Đức Chúa Trời sẽ ban xứ ấy cho con cháu Áp-ra-ham, nhưng khi Áp-ra-ham với Sa-ra đến nơi, họ là “Khách lạ và người bộ hành” giữa một xã hội ngoại đạo (Hê-bơ-rơ 11:3).
Mặc cho những bài dân ca nói gì, việc đi vào Ca-na-an không phải là một bức tranh về sự chết hay lên trời, Đó là một bức tranh về tín hữu xác nhận di sản của mình bằng đức tin. Đức Chúa Trời đã chỉ định một “Ca-na-an” cho mỗi con cái Ngài (Ê-phê-sô 2:10), và nó dành được chỉ bởi đức tin. Xác nhận di sản của bạn liên quan đến những thử nghiệm và những cám dỗ, những thách thức và những trận chiến, nhưng Đức Chúa Trời có thể giúp bạn vượt qua (Phi-líp 1:6).
Sự vâng lời dẫn đến một sự xác tín mới và những lời hứa mới từ Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 12:7 Giăng 7:17). Điều đó chắc đã đem đến một sự yên ủi biết bao khi Áp-ra-ham và Sa-ra có sự mạc khải mới này lúc họ đến trong một xứ xa lạ và nguy hiểm. Khi bạn bước đi bằng đức tin, bạn biết rằng Đức Chúa Trời ở cùng bạn và bạn không cần phải sợ hãi (Hê-bơ-rơ 13:5-6 Công vụ 18:9-10 2Ti-mô-thê 4:17) Đức Chúa Trời sẽ thực hiện những mục đích của Ngài và hoàn thành trong và qua bạn tất cả những gì trong lòng Ngài.
Đa số chúng ta không được ra lệnh phải chấm dứt mọi sự đầu tư và đi đến một xứ xa lạ, nhưng những thử thách đối với đức tin của chúng ta là thật. Đôi khi có những vấn đề nghiêm trọng trong gia đình, công việc, hay trong Hội Thánh, và chúng ta không biết vì sao Đức Chúa Trời cho phép những điều này xảy ra. Nếu bạn muốn dành lấy di sản thuộc linh của mình trong Đấng Christ, bạn phải thực hành đức tin nơi Lời Đức Chúa Trời và sự vâng phục ý muốn Đức Chúa Trời.
Bất cứ nơi đâu Áp-ra-ham đến trong xứ Ca-na-an đều được ghi dấu bởi trại và bàn thờ của ông (Sáng Thế Ký 12:7-8 Sáng Thế Ký 13:3-4, 18). Trại cho thấy ông là một “khách lạ và người bộ hành” không thuộc về thế gian này (Hê-bơ-rơ 11:9-16 1Phi-e-rơ 2:11), và bàn thờ cho thấy ông là một công dân trên trời thờ phượng Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật. Ông bày tỏ chứng cớ cho tất cả rằng ông được biệt riêng khỏi thế gian này (trại) và dâng mình cho Chúa (bàn thờ). Bất cứ khi nào Áp-ra-ham bỏ trại và bàn thờ của ông, ông gặp phải rắc rối.
Áp-ra-ham cắm trại ông ở phía Tây Bê-tên và phía Đông A-hi (Sáng Thế Ký 12:8). Những tên trong Kinh Thánh đôi khi có những ý nghĩa rất hay, dầu vậy chúng ta cũng không nên đi quá xa. Bê-tên có nghĩa là “nhà của Đức Chúa Trời” (Sáng Thế Ký 28:19) và A-hi nghĩa là “sự đổ nát”. Nói theo nghĩa bóng, Áp-ra-ham và Sa-ra đang đi trong sự sáng, từ Đông sang Tây, từ thành đổ nát sang nhà của Đức Chúa Trời! Hệ thống thế gian này ở trong sự đổ nát, nhưng những tín hữu thật đã quay lưng với thế gian và để mặt họ hướng về nhà trên trời của Đức Chúa Trời “Con đường người công bình giống như tia sáng bình minh đầu tiên, chiếu sáng hơn cho đến sự sáng hoàn toàn của ngày” (Châm Ngôn 4:18 NIV)
Đức tin đem chúng ta lên (Sáng Thế Ký 12:9). Đời sống đức tin đừng bao giờ đứng yên; vì nếu chân bạn bước đi, đức tin bạn tăng trưởng. Hãy chú ý những động từ sử dụng để mô tả đời sống của Áp-ra-ham. Ông ra đi (Sáng Thế Ký 12:4), đi đến (Sáng Thế Ký 12:5) đi qua (Sáng Thế Ký 12:6), dời đi (Sáng Thế Ký 12:8) và thực hiện cuộc hành trình (Sáng Thế Ký 12:9). Đức Chúa Trời đã giữ cho Áp-ra-ham di chuyển để ông sẽ gặp những thử thách mới và buộc phải tin cậy Đức Chúa Trời hầu có “ơn (mới) để giúp đỡ trong thì giờ cần thiết (Hê-bơ-rơ 4:16). Cơ Đốc giáo tiện nghi đối lập với đời sống đức tin, vì “người bộ hành và khách lạ” phải đối diện những hoàn cảnh mới nếu họ muốn đạt đến những hiểu biết sâu sắc mới về chính mình và Chúa của mình. “Chúng ta hãy tấn tới sự trưởng thành” là thách thức (Hê-bơ-rơ 6:1 NASB).
Làm sao Áp-ra-ham biết phải đi đâu và làm gì? Ông đã “cầu khẩn danh Chúa” (Sáng Thế Ký 12:8). Ông cầu nguyện với Chúa và Chúa đã giúp ông. Những láng giềng ngoại đạo của Áp-ra-ham thấy rằng ông có một bàn thờ nhưng không có hình tượng nào. Ông không có “những nơi thiêng liêng” nhưng đã xây bàn thờ cho Đức Chúa trời bất cứ nơi đâu ông đóng trại. Bạn có thể lần theo những bước đi của Áp-ra-ham bằng những bàn thờ ông để lại phía sau. Ông không xấu hổ khi thờ phượng Đức Chúa Trời một cách công khai trong khi những láng giềng ngoại đạo quan sát ông.
Trong đời sống của người bộ hành, bạn phải đi “từ đức tin đến đức tin” (Rô-ma 1:17) nếu bạn muốn đi “từ sức mạnh đến sức mạnh” (Thi Thiên 84:7)G. A. Studdert Kennedy đã nói: “Đức tin không phải là tin bất chấp chứng cớ. Đó là vâng lời bất chấp hậu quả”. “Bởi đức tin, Áp-ra-ham… đã vâng lời” (Hê-bơ-rơ 11:8).Đức tin không có sự vâng lời là đức tin chết (Gia-cơ 2:14-26), và hành động không có đức tin là tội lỗi (Rô-ma 14:23). Đức Chúa Trời đã kết hợp đức tin với sự vâng lời giống như hai mặt của một đồng tiền, chúng đi với nhau.
Điều này không có nghĩa là tội nhân được cứu bởi đức tin cộng với việc làm vì Kinh Thánh tuyên bố rằng tội nhân được cứu chỉ bởi đức tin (Giăng 3:16, 18 Ê-phê-sô 2:8-9). Tiến sĩ H. A. Ironside, mục sư thâm niên của Hội Thánh Moody ở Chicago, được một phụ nữ cho biết rằng bà mong đến Thiên Đàng bằng đức tin cộng với việc thiện của mình. Bà giải thích: “Nó giống như việc chèo một con thuyền. Cần phải có hai mái chèo để lái một con thuyền, nếu không thì bạn đi quanh trong một vòng tròn” Tiến sĩ Ironside đáp: “Đó là một minh họa hay ngoại trừ một điều. Tôi sẽ không đến Thiên Đàng trong một con thuyền có mái chèo”.
Đức tin cứu rỗi là đức tin chứng tỏ chính nó qua việc thiện (Ê-phê-sô 2:8-10 Tit 2:14 3:8, 14). Áp-ra-ham được cứu bởi đức tin (Hê-bơ-rơ 11:8 Sáng Thế Ký 15:6 Rô-ma 4:1-5), nhưng đức tin của ông được trở nên hiển nhiên bởi sự vâng lời của ông (Gia-cơ 2:21-24).
Áp-ra-ham giờ đây ở trong vị trí Đức Chúa Trời chỉ định, làm điều Đức Chúa Trời bảo ông làm. Nhưng đây không phải là kết thúc, đó là khởi đầu! Thậm chí trong vị trí vâng phục bạn cũng sẽ đối diện những thử thách và hoạn nạn vì đó là cách đức tin tăng trưởng. Nhưng chính Đức Chúa Trời là Đấng đã đem bạn ra, đem bạn vào, và đem bạn lên trong cuộc hành hương của bạn, cũng sẽ đem bạn vượt qua nếu bạn đi theo Ngài bằng đức tin.
13. NẠN ĐÓI, BẦY SÚC VẬT VÀ NHỮNG CUỘC CHIẾN (Sáng Thế Ký 12:10-13:18)
Amy Carmichael, nhà truyền giáo ở Ấn Độ đã viết: “Đời sống có thể khó khăn. Đôi khi kẻ thù đến như một cơn nước lụt. Nhưng đó là lúc để chứng tỏ đức tin của chúng ta và sống với những bài hát của chúng ta” (Cartles in the Dark những ngọn nến trong bóng tối, trang 51).
Một đức tin mà không thể được thử nghiệm thì không thể được tin cậy. Phi-e-rơ đã so sánh những hoạn nạn của Cơ Đốc nhân với việc thử vàng trong lò lửa (1Phi-e-rơ 1:7), và trưởng tộc Gióp đã sử dụng hình ảnh tương tự:“Nhưng Chúa biết con đường tôi đi, khi Ngài đã thử rèn tôi, tôi sẽ ra như vàng” (Gióp 23:10). Mục đích của Đức Chúa Trời trong việc cho phép những hoạn nạn không chỉ để xác thực đức tin của chúng ta mà còn để tẩy thanh và trừ bỏ cặn bã.Đức Chúa Trời biết chúng ta có loại đức tin gì, nhưng chúng ta không biết, và cách duy nhất để tấn tới trong “trường đức tin” là dự những kỳ thi.
Giống như Áp-ra-ham, khi bạn tiến bộ trong “trường đức tin”, bạn sẽ đối diện ba sự thử nghiệm đặc biệt: hoàn cảnh (Sáng Thế Ký 12:10) con người (Sáng Thế Ký 12:11-13:4) và sự việc (Sáng Thế Ký 13:5-18).
1. Hoàn cảnh (Sáng Thế Ký 12:10)
Khi lìa gia đình và đi đến một xứ xa lạ, Áp-ra-ham đã đi một bước lớn của đức tin. Sau khi ông đến nơi, ông thấy Đức Chúa Trời lần thứ hai và nghe lời hứa của Ngài. Áp-ra-ham và Sa-ra có thể mong định cư và hưởng nhà mới của họ, nhưng Đức Chúa Trời chưa cho phép họ. Ngược lại, Đức Chúa Trời cho phép một cơn đói đến với xứ, không có ghi chép nào cho thấy Áp-ra-ham đã đối diện một cơn đói ở U-rơ hay Cha-ran. Nhưng giờ đây ông ở trong xứ của Đức Chúa Trời, ông phải tìm lương thực cho một đoàn người đông đảo cộng với bầy chiên và bầy súc vật (Sáng Thế Ký 14:14).
Tại sao Đức Chúa Trời cho phép cơn đói? Để dạy Áp-ra-ham và Sa-ra một bài học cơ bản trong “trường đức tin”, một bài học mà bạn cũng phải học. Những thử nghiệm thường theo sau những chiến thắng. Nguyên tắc này được minh họa trong lịch sử Y-sơ-ra-ên. Dân tộc này được giải cứu khỏi Ai Cập chưa được bao lâu thì quân Ai Cập đã đuổi theo họ và theo sát họ tại Biển Đỏ (Xuất Ê-díp-tô 12:1-15:27). Chiến thắng thường được theo sau bởi thử nghiệm. Đức Chúa Trời đã đem họ vượt qua nhưng rồi họ đối diện với thử nghiệm khác: không có nước (Xuất Ê-díp-tô 15:22-27).Sau đó, cơn đói xảy ra (Xuất Ê-díp-tô 16:1-36) và có một cuộc tấn công của dân A-ma-léc (Xuất Ê-díp-tô 17:1-16).Những thử nghiệm theo sau những chiến thắng.
Một tín hữu trẻ đã nói với tôi: “Tôi đã nghĩ rằng được cứu rỗi là cuối cùng của mọi hoạn nạn của tôi. Nhưng giờ đây tôi biết rằng đức tin trong Đấng Christ đã cho tôi một tập hợp toàn bộ những vấn đề mới! Nhưng giờ đây có hai sự khác nhau”, anh ta nói thêm với một nụ cười: “Tôi không đối diện với chúng một mình, vì Chúa ở cùng tôi, và tôi biết Ngài cho phép chúng vì ích lợi của tôi và vì vinh hiển của Ngài”.
Một trong những kẻ thù của đời sống đức tin là sự kiêu ngạo, khi bạn giành chiến thắng, bạn có thể cảm thấy quá tự tin và bắt đầu tự nhủ rằng bạn có thể đánh bại bất cứ kẻ thù nào ở bất cứ lúc nào. Bạn bắt đầu dựa vào kinh nghiệm quá khứ và hiểu biết gia tăng của bạn về Lời Chúa, thay vì nhờ cậy hoàn toàn nơi Chúa. Điều này giải thích lý do lời hứa ở 1Cô-rinh-tô 10:13 theo sau lời cảnh cáo ở câu 12: “Vì vậy ai tưởng mình đứng vững, hãy chú ý kẻo ngã” (NKJV). Đức Chúa Trời không muốn Áp-ra-ham trở nên kiêu ngạo và tự tin, vì vậy Ngài đặt ông và đức tin của ông trong lò thử nghiệm.
Sau khi bạn đã dành một chiến thắng lớn của đức tin, hãy nghĩ đến việc kẻ thù tấn công bạn hoặc Chúa thử nghiệm bạn, hay cả hai điều. Đây là cách duy nhất bạn có thể tăng trưởng trong đức tin của mình. Đức Chúa Trời sử dụng những hoàn cảnh gay go của đời sống để xây dựng những cơ bắp của đức tin bạn và ngăn trở bạn tin cậy điều gì hơn Lời Ngài. Đừng tìm cách chạy trốn khỏi vấn đề. Điều đó sẽ không có hiệu quả.
Thay vì cứ ở trong xứ và tin cậy Chúa giúp mình, Áp-ra-ham đã đi “xuống xứ Ai Cập” (Sáng Thế Ký 12:10). Trong Kinh Thánh, Ai Cập là một tượng trưng cho hệ thống thế gian và ách nô lệ của nó, trong khi xứ Y-sơ-ra-ên là một bức tranh về di sản của phước hạnh mà Đức Chúa Trời dành cho bạn (Phục truyền 11:10-12). Khi người ta đến Giê-ru-sa-lem, họ đi lên, nhưng họ đến Ai Cập, họ đi xuống. Nói theo mặt thuộc linh, “đi xuống Ai Cập” nghĩa là nghi ngờ những lời hứa của Đức Chúa Trời và chạy đến với thế gian để được sự giúp đỡ (Dân Số Ký 11:1-35 Dân Số Ký 14:1-45 Ê-sai 30:1-2 31:1 Giê-rê-mi 42:13).
Khi những hoàn cảnh trở nên khó khăn và bạn ở trong lò lửa thử nghiệm, hãy cứ ở nơi Đức Chúa Trời đã đặt để bạn cho đến khi Ngài bảo bạn đi. Đức tin đi theo hướng của sự bình an và hy vọng, nhưng sự vô tín đi theo hướng của sự bồn chồn và sợ hãi, “Ai tin sẽ chẳng gấp rút” (Ê-sai 28:16). Trong những lúc thử thách, câu hỏi quan trọng không phải là “làm sao tôi có thể thoát ra khỏi điều này?” nhưng là “Tôi có thể rút ra cái gì từ điều này?” (Gia-cơ 1:1-12).Đức Chúa Trời đang hành động để xây dựng đức tin của bạn.
Chỉ một mình Đức Chúa Trời nắm quyền điều khiển mọi hoàn cảnh. Bạn được an toàn trong một nạn đói theo ý muốn Ngài hơn là ở trong một cung đện ngoài ý muốn của Ngài. Người ta thường nói: “Ý muốn Đức Chúa Trời sẽ chẳng bao giờ dẫn bạn đến nơi mà ân điển Đức Chúa Trời không thể gìn giữ bạn”. Áp-ra-ham đã thất bại cuộc thử nghiệm của những hoàn cảnh và đi ngược với ý muốn của Đức Chúa Trời.
2. Con người (Sáng Thế Ký 12:10) (Sáng Thế Ký 12:11-13:4)
Một khi đã ở Ê-díp-tô, Áp-ra-ham đối diện với một tập hợp những vấn đề mới. Vì nếu bạn chạy trốn khỏi sự thử nghiệm này, bạn sẽ sớm đối diện với thử nghiệm khác. Một khi bạn ghi tên trong “trường đức tin”, bạn không được phép “bỏ học” chỉ vì một thất bại. Đức Chúa Trời có những mục đích để thực hiện trong bạn và qua bạn, và Ngài sẽ làm mọi điều cần thiết để khiến bạn thành công (Thi Thiên 138:8 Phi-líp 1:6).
Ở Ca-na-an, tất cả những gì Áp-ra-ham phải đối phó là một nạn đói, nhưng ở Ê-díp-tô, ông đã phải khuất phục một vua kiêu ngạo và quần thần của ông ta. Pha-ra-ôn được dân chúng xem là vị vua yêu thương, rời rộng và thành tín. Áp-ra-ham chẳng bao lâu khám phá rằng ông nên đối phó với những hoàn cảnh ở Ca-na-an hơn là với những con người ở Ê-díp-tô. Hãy chú ý những thay đổi đã xảy ra trong đời sống của Áp-ra-ham do ông đi xuống Ê-díp-tô.
Trước hết, Áp-ra-ham đi từ sự tin cậy đến việc vạch kế hoạch. Áp-ra-ham không có bàn thờ ở Ê-díp-tô, và bạn không thấy ông kêu cầu Chúa để được sự hướng dẫn và giúp đỡ. Khi tôi thi hành chức vụ trong nhóm “Youth for Christ International” (Nhóm Quốc Tế tuổi trẻ cho Đấng Christ), bạn tôi và người cộng sự Pete Quist thường nhắc nhở chúng tôi: “Đức tin là sống mà không lập kế hoạch”. Khi bạn thôi tin cậy Lời Đức Chúa Trời, bạn bắt đầu cậy vào sự khôn ngoan của loài người, và điều này dẫn đến rắc rối (Châm Ngôn 3:5-6 1Cô-rinh-tô 3:18-20). Áp-ra-ham và Sa-ra đã đem “lẽ thật nửa vời” này theo họ từ U-rơ (Sáng Thế Ký 20:13 sử dụng nó ở Ê-díp-tô và Ghê-ra (Sáng Thế Ký 20:1-18), và sau đó con trai ông là Y-sác đã áp dụng điều đó (Sáng Thế Ký 26:1-35). Khi bạn thấy mình lập kế hoạch để thoát khỏi những vấn đề với con người, hãy coi chừng, rắc rối tệ hại hơn sẽ đến!
Ông cũng đi từ sự tin quyết đến sự sợ hãi. Khi bạn ở nơi Đức Chúa Trời chọn, bạn chẳng cần phải sợ hãi, vì đức tin và sự sợ hãi không thể ở trong cùng một tấm lòng (Ê-sai 12:2 Mác 4:40). Sự kính sợ Đức Chúa Trời là sự kính sợ chiến thắng mọi sự sợ hãi (Thi Thiên 112:1-10 Ê-sai 8:13), nhưng “sự sợ loài người đem đến một cái bẫy” (Châm Ngôn 29:25 NKJV). Đức Chúa Trời đã nhiều lần phán: “Ta sẽ” với Áp-ra-ham, nhưng giờ đây Áp-ra-ham nói “họ sẽ” (Sáng Thế Ký 12:12). Ông để mắt mình rời khỏi Đức Chúa Trời và nhìn vào con người.
Một thay đổi thứ ba đã xảy ra. Ông dần dần chỉ nghĩ đến mình mà thôi. Ông đã nói dối để điều đó có thể “may mắn cho ta vì cớ ngươi Sa-ra” (Sáng Thế Ký 12:13). Là chồng, Áp-ra-ham lẽ ra phải nghĩ đến vợ ông trước tiên chớ không phải bản thân ông (1Phi-e-rơ 3:7 Ê-phê-sô 5:25, 28, 29). Thật ra, ông không nên đem vợ đến đó trước! Một người chồng ngoài ý muốn Đức Chúa Trời có thể đem đến rắc rối không kể xiết cho vợ và gia đình người ấy.
Điều này dẫn đến một thay đổi thứ tư: Ông đi từ chỗ đem đến phước hạnh đến chỗ đem đến sự xét đoán. Đức Chúa Trời đã kêu gọi Áp-ra-ham để làm một phước hạnh cho các dân tộc (Sáng Thế Ký 12:1-3), nhưng bởi sự bất tuân của Áp-ra-ham, sự xét đoán đã giáng trên Pha-ra-ôn và người nhà ông (Sáng Thế Ký 12:17). Điều này cũng xảy ra những năm sau đó ở Ghê-ra (Sáng Thế Ký 20:1-18). Nếu bạn muốn đem phước hạnh cho người khác, vậy hãy ở trong ý muốn của Đức Chúa Trời. Giô-na đã chạy trốn khỏi ý muốn của Đức Chúa Trời và gây nên một cơn bão gần như làm chìm con tàu. Giống như Giô-na, Áp-ra-ham đã đánh mất chứng cớ trước những người không tin và đã phải đối diện với sự lúng túng và sự quở trách.
Đức Chúa Trời nhân từ dõi theo tôi tớ Ngài và đem ông ra khỏi một hoàn cảnh khó khăn. Nếu Sa-ra trở thành một trong những người vợ của Pha-ra-ôn, điều gì sẽ xảy đến cho lời hứa về Đấng Cứu Chuộc? Khi chúng ta không để Đức Chúa Trời cai trị, Ngài vẫn tể trị và thực hiện những mục đích của Ngài, nhưng chúng ta trả giá đắt cho sự bất tuân của mình.
Áp-ra-ham đã học bài học này, ăn năn, và “trở lên”khỏi Ai Cập (Sáng Thế Ký 13:1). Khi bạn bất tuân ý muốn Đức Chúa Trời, việc đúng đắn duy nhất phải làm là trở lại nơi bạn đã lìa khỏi Ngài và tạo một khởi đầu mới (IGia 1:9). Không có thất bại nào còn mãi trong “trường đức tin”. Áp-ra-ham đã trở lại với trại của ông, bàn thờ và đời sống của một “người bộ hành và khách lạ”.
Một người tình cờ quan sát tình tiết này có thể kết luận “Điều đã xảy đến cho Áp-ra-ham không hoàn toàn tệ hại. Pha-ra-ôn đã cho Áp-ra-ham nhiều của cải (Sáng Thế Ký 12:16 Sáng Thế Ký 13:2) và Sa-ra đã được ban cho đầy tớ gái, A-ga (Sáng Thế Ký 16:1). Đức Chúa Trời đã tha thứ tội lỗi của Áp-ra-ham, và ông đã bắt đầu trở lại. Vậy, đâu là vấn đề lớn?”
“Vấn đề lớn” đó là mọi thứ Áp-ra-ham đã nhận được ở Ê-díp-tô sau đó đã gây ra rắc rối. Vì của cải lớn của họ, Áp-ra-ham và Lót đã không thể sống chung với nhau và phải phân rẽ (Sáng Thế Ký 13:5-6). A-ga, đầy tớ gái người Ai Cập, đã đem sự chia rẽ và buồn rầu vào trong gia đình (Sáng Thế Ký 16:1-16). Đã có một sự nếm trải về Ê-díp-tô (thế gian), Lót bắt đầu đo lường mọi sự bằng những gì ông nhìn thấy ở đó (Sáng Thế Ký 13:10-11), và điều này dẫn đến sự sa ngã và sự sụp đổ của gia đình ông. Không có ích lợi gì từ sự bất tuân.
Bài học thực tiễn từ mọi điều này đơn giản là đừng bao giờ từ bỏ bàn thờ của bạn. Hằng ở trong mối giao thông với Chúa cho dù hoàn cảnh có thể ra sao. Nếu bạn bất tuân và Đức Chúa Trời kỷ luật bạn, hãy trở lại nơi bạn đã lìa khỏi Ngài và làm cho mọi sự trở nên đúng đắn. Hãy nhớ: “Đời sống Cơ Đốc đắc thắng là một chuỗi những khởi đầu mới”. Đó không phải là một sự biện hộ cho tội lỗi, nhưng đó là một sự khích lệ cho sự ăn năn.
Sáng Thế Ký 13:1-4 xem giải nghĩa Sáng Thế Ký 12:10
3. Sự việc (Sáng Thế Ký 13:5-18)
Tôi không biết có bao nhiêu cuộc chiến gia đình đã xảy ra bởi sự tham tiền. Báo chí thường đăng tường thuật về những gia đình tranh chiến trước tòa vì việc gia tài hay một cuộc trúng vé số. Những người từng yêu nhau và vui sống với nhau bắt đầu tấn công nhau chỉ để có tiền, nhưng tiền bạc không thể mua những phước hạnh mà các gia đình hưởng một cách tự do.
Áp-ra-ham có thể đã thất bại hai thử nghiệm đầu tiên, nhưng ông đã vượt qua thử nghiệm thứ ba với thành công lớn. Thử nghiệm này không phải là một thử nghiệm dễ dàng, vì nó có liên quan đến đất đai và của cải; nhưng Áp-ra-ham là tấm gương về điều mà mỗi tín hữu phải làm khi có những tranh chấp những thứ vật chất.
Áp-ra-ham ham đã quyết định làm một người hòa giải chớ không phải một người gây rối. Vấn đề giữa Áp-ra-ham và Lót không bị gây ra bởi đất đai, nạn đói hay của cải (cả hai người đều giàu có), hay thậm chí những người chăn súc vật của họ (Sáng Thế Ký 13:7). Trung tâm của mọi vấn đề là vấn đề trong tấm lòng. Lòng của Lót hướng về của cải và thành công của thế gian, còn Áp-ra-ham chỉ muốn là đẹp lòng Chúa. “Hai người có thể đi cùng với nhau, nếu họ không đồng ý với nhau sao?” (A-mốt 3:3).
Thật tệ hại khi sự tranh chấp này ở giữa vòng anh em (Sáng Thế Ký 13:8), nhưng tệ hại hơn, những người ngoại đạo trong xứ đang theo dõi và lắng nghe (Sáng Thế Ký 13:7). Khi các Cơ Đốc nhân có những tranh chấp, điều đó gây tai hại cho lời chứng về Chúa. Trong chức vụ mục sư của tôi, tôi thường thăm viếng những bà con và bạn bè chưa được cứu của những thuộc viên Hội Thánh, tìm cách khiến họ quan tâm về những điều thuộc linh, chỉ để khám phá rằng họ biết về mọi “tranh chấp trong Hội Thánh” trong thành phố. Không có gì lạ khi Chúa chúng ta cầu nguyện để dân sự Ngài có thể hiệp một, hầu cho thế gian có thể tin (Giăng 17:20-23).Sự hiệp nhất Cơ Đốc tỏa hương thơm và có kết quả (Thi Thiên 133:1-3), nhưng sự không đoàn kết khiến cho hương thơm đó trở thành một mùi hôi thối và biến khu vườn thành một hoang mạc.
Gia-cơ 3:13-4:10 giải thích lý do Lót là một kẻ gây rối thay vì một người hòa giải: Ông có “sự rắc rối trong lòng”. Ông đi theo sự khôn ngoan của thế gian này (như Áp-ra-ham chú ông đã làm ở Ai Cập) chớ không phải sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Ông tranh chấp với Áp-ra-ham vì ông đã tranh chiến với bản thân, và ông tranh chiến với bản thân vì ông tranh chiến với Đức Chúa Trời. Sự khôn ngoan của thế gian và của cải (của) thế gian dường như đem lại sự thỏa mãn, nhưng cuối cùng chúng đem đến sự thất vọng.
Sự tham lam – một khao khát vô độ để có nhiều hơn -dẫn đến mọi loại điều ác (1Ti-mô-thê 6:10). Để có nhiều tiền hơn, con người sẽ nói dối (Châm Ngôn 21:6) ngược đãi người khác (Châm Ngôn 22:16), lừa đảo (Châm Ngôn 28:8) và thậm chí gây phiền toái cho gia đình mình (Châm Ngôn 15:27). Robert South đã viết: “Sự tham lam là khởi đầu và kết thúc âm mưu của ma quỉ, thói xấu đầu tiên trong bản tính sa đọa hoạt động và thói xấu cuối cùng đi đến chỗ chết”.
Áp-ra-ham đã gây rắc rối ở Ai Cập vì ông ở không đúng chỗ, và Lót đã gây ra rắc rối ở Ca-na-an vì ông ở không đúng chỗ: Lòng ông thật sự ở Ai Cập (Sáng Thế Ký 13:10). Theo 1Cô-rinh-tô 2:14-3:3 chỉ có ba loại người trong thế gian:người tự nhiên (chưa được cứu), người xác thịt (được cứu nhưng sống cho thế gian: và xác thịt, và người thuộc linh dâng mình cho Đức Chúa Trời). Bạn tìm thấy cả ba loại ngươi trong Sáng Thế Ký 13:1-18: người tự nhiên (Sáng Thế Ký 13:13) người xác thịt (Lót) và người thuộc linh (Áp-ra-ham). Lót là một người công bình (2Phi-e-rơ 2:7-8), nhưng không dâng mình cho Chúa. Ông không thể cùng đi với Áp-ra-ham vì Áp-ra-ham là bạn của Đức Chúa Trời (2Sử Ký 20:7 Ê-sai 41:8) và Lót là bạn của thế gian (Gia-cơ 4:4). Có nhiều sự chia rẽ trong Hội Thánh và những tranh chấp trong gia đình được gây ra bởi những Cơ Đốc nhân xác thịt là những người không bước đi với Chúa hay với những tín hữu khác.
Áp-ra-ham đã sống vì người khác, chớ không vì bản thân. Mặc dù ở Ai Cập, Áp-ra-ham đã nghĩ đến bản thântrước tiên (Sáng Thế Ký 12:12-13), nhưng khi ông trở lại với bàn thờ của ông ở Ca-na-an, ông đặt Đức Chúa Trời lên trên và kế đến là những người khác. Với tư cách “nhà chính trị cao niên” của trại, Áp-ra-ham có mọi quyền để quyết định vấn đề và bảo Lót điều phải làm, nhưng ông cho Lót sự chọn lựa trước tiên “Hãy yêu nhau cách thân ái bằng tình yêu anh em, trong sự tôn trọng nhau” (Rô-ma 12:10). Cơ Đốc nhân thuộc linh không khăng khăng đòi những quyền lợi của riêng mình nhưng vui mừng nhường nhịn người khác. Trong những năm cuối của mình, tướng William Booth, người sáng lập “The Salvation Army” (tên một tổ chức từ thiện cứu tế quốc tế sáng lập 1865 ở Anh để giúp những người nghèo khó) đã quá yếu nên không thể tham dự hội nghị thế giới của Army, nhưng ông đã gởi đến những đại biểu một sứ điệp. Một năm nọ ông đã gởi đến một bức điện chỉ có một chữ “Những người khác”. Tôi đã được đặc quyền thi hành chức vụ với The Salvation Army ở những khu vực khác nhau trên thế giới, và tôi có thể xác nhận rằng họ xem từ “OTHERS” đó rất nghiêm túc. “Mỗi người trong anh em chớ chăm về lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác nữa” (Phi-líp 2:4).
Áp-ra-ham đã sống bởi đức tin chớ không bởi ngoại cảnh. Cho dù Lót đã làm gì, Áp-ra-ham không lo lắng về tương lai ông; vì ông biết rằng mọi sự ở trong tay Chúa. Áp-ra-ham chưa bao giờ đọc Thi Thiên 47:4 hay Ma-thi-ơ 6:33 nhưng ông đặt cả hai vào sự thực hành bằng đức tin. Ông đã gặp Đức Chúa Trời tại bàn thờ và ông biết rằng mọi sự ở dưới quyền điều khiển. Khi Đức Chúa Trời là ưu tiên trong đời sống của bạn thì ai là người thứ nhì hay cuối cùng không tạo điều gì khác biệt.
Lót có một trại nhưng không có bàn thờ (Sáng Thế Ký 13:5), nghĩa là ông đã không cầu khẩn Chúa để được khôn ngoan trong việc thực hiện những quyết định (Gia-cơ 1:5). Thay vì ngước mắt lên trời, Lót ngước mắt về phía đồng bằng của Giô-đanh (Sáng Thế Ký 13:10) và ngừng lại ở đó. Đôi mắt nhìn điều mà tấm lòng yêu thích. Áp-ra-ham đã đưa Lót ra khỏi chân lý Ai Cập, nhưng ông không thể đem Ai Cập ra khỏi Lót. Quan điểm quyết định hậu quả. Mắt Áp-ra-ham đặt trên thành thánh của Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 11:13-16), ông tiếp tục bước đi với Chúa và hưởng phước hạnh. Mắt Lót đặt trên những thành tội lỗi của loài người, và ông tiếp tục tiến đến sự thành công của thế gian, sự thất bại thuộc linh và một kết thúc nhục nhã.
Lót có một cơ hội lớn để trở thành người của Đức Chúa Trời khi ông đồng đi với Áp-ra-ham, nhưng chúng ta không đọc về việc Lót xây một bàn thờ hay cầu khẩn Chúa. Trước tiên Lót nhìn về Sô-đôm (Sáng Thế Ký 13:10); Rồi ông đi đến Sô-đôm (Sáng Thế Ký 13:11-12), và cuối cùng, ông đi vào Sô-đôm (Sáng Thế Ký 14:12). Thay vì làm một khách hành hương tiếp tục hành trình, Lót đi lùi vào trong thế gian và xa cách phước hạnh của Đức Chúa Trời (Thi Thiên 1:1). Ông đã “đi qua phía Đông” (Sáng Thế Ký 13:11), quay lưng về phía Bê-tên (“nhà của Đức Chúa Trời”) và hướng về A-hi (“sự đổ nát”, xem Sáng Thế Ký 12:8). Dân ở Sô-đôm có thể dường như không gian ác đối với Lót, nhưng họ gian ác đối với Đức Chúa Trời, và sự đánh giá của Ngài là tất cả những gì quan trọng.
Áp-ra-ham để Đức Chúa Trời chọn lựa cho ông. Sau khi Lót đã ra đi, Áp-ra-ham có cuộc gặp gỡ khác với Chúa (Sáng Thế Ký 13:14-18). Lót đã ngước mắt lên và thấy những gì thế gian cho. Giờ đây, Đức Chúa Trời mời Áp-ra-ham ngước mắt lên và xem những gì Thiên Đàng ban cho. Lót chọn một phần xứ mà ông cuối cùng đánh mất, nhưng Đức Chúa Trời đã ban cho Áp-ra-ham toàn xứ vẫn thuộc về ông và con cháu ông. Lót đã nói “Ta sẽ chọn”. Đức Chúa Trời đã phán với Áp-ra-ham:“Ta sẽ ban cho”. Thật là một tương phản!
Lót mất gia đình, nhưng Áp-ra-ham được hứa ban một gia đình đông đúc đến nỗi không thể đếm được. (Hãy nhớ, Áp-ra-ham và Sa-ra đã già và không có con). Lót đang sống cho những điều có thể xảy ra, nhưng Áp-ra-ham tin cậy Đức Chúa Trời cho những điều không thể xảy ra.
“Hãy nhướng mắt lên và nhìn xem” được tiếp theo bởi “Hãy nhấc chân và bước đi” (Sáng Thế Ký 13:17). Hãy xác nhận di sản của bạn bằng đức tin! (Giô-suê 1:1-3 Phục truyền 11:24). Kỷ luật mà ông đã kinh nghiệm khi đi xuống Ai Cập đã dạy Áp-ra-ham tôn trọng những ranh giới, vì vậy giờ đây Đức Chúa Trời có thể giao phó cho ông những chân trời rộng mở. Chính đức tin của bạn nơi Đức Chúa Trời quyết định mức độ phước hạnh của Ngài mà bạn sẽ hưởng.
Khi bạn tin Chúa Giê-xu Christ là Cứu Chúa của mình, Đức Chúa Trời ban cho bạn “mọi phước hạnh thuộc linh ở các nơi trên trời trong Đấng Christ” (Ê-phê-sô 1:3). Bạn giờ đây có di sản của mình! Tất cả những gì bạn cần làm là dành di sản đó bằng đức tin và lãnh “sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển” (Phi-líp 4:19). Lời Đức Chúa Trời là “di chúc” cho bạn biết bạn giàu có ra sao, và đức tin là chìa khóa mở kho để bạn có thể xác nhận di sản của mình.
Áp-ra-ham dâng lời tạ ơn Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham không chỉ nhướng mắt, nhìn xem (Sáng Thế Ký 13:14), nhấc chân và bước đi (Sáng Thế Ký 13:17), nhưng ông cũng dâng tấm lòng để thờ phượng Đức Chúa Trời và cảm tạ Ngài về ơn phước nhơn từ của Ngài. Ông đóng trại từ nơi này sang nơi khác theo như Đức Chúa Trời hướng dẫn ông, và ông đã xây bàn thờ chứng cớ và thờ phượng. Dân ở Sô-đôm kiêu ngạo về sự giàu có của họ (Ê-xê-chiên 16:49), nhưng Áp-ra-ham có của cải thuộc linh mà họ chẳng biết gì (Giăng 4:31-34). Ông đang bước đi trong mối giao thông với Đức Chúa Trời, và lòng ông được thỏa mãn.
Sa-tan muốn sử dụng hoàn cảnh, con người và sự việc để cám dỗ bạn và đem đến điều tệ hại nhất trong bạn, nhưng Đức Chúa Trời cũng muốn sử dụng những điều đó để thử nghiệm bạn và đem đến điều tốt nhất trong bạn. Áp-ra-ham đã thất bại hai cuộc thử nghiệm đầu tiên vì ông sử dụng đức tin nơi sự khôn ngoan của loài người thay vì đức tin nơi Lời Đức Chúa Trời. Nhưng ông đã vượt qua cuộc thử nghiệm thứ 3 với nét đặc biệt lớn vì ông để Đức Chúa Trời nắm quyền điều khiển. “Và đây là chiến thắng vượt trên thế gian: đức tin của chúng ta” (1Giăng 5:4 NKJV).
14. ĐỨC TIN LÀ SỰ CHIẾN THẮNG (Sáng Thế Ký 14:1-24)
Khi bạn ghi tên trong “trường đức tin”, bạn không bao giờ biết điều gì xảy ra kế tiếp. Một ngày nào đó hãy thăm viếng Áp-ra-ham và bạn thấy ông giải quyết một cuộc tranh chấp về ranh giới. Hãy thăm viếng ông một ngày khác và bạn thấy ông chuẩn bị cho một cuộc chiến. Điều này tại sao như vậy?
Trước tiên, Đức Chúa Trời muốn chúng ta trưởng thành trong mọi lãnh vực của đời sống nhưng sự trưởng thành không đến dễ dàng, không thể có sự tăng trưởng mà không có thử thách, và không thể có thử thách mà không có sự thay đổi. Nếu hoàn cảnh không bao giờ thay đổi, mọi sự sẽ có thể tiên đoán được; và đời sống càng trở nên có thể đoán trước được, nó càng bày tỏ ít thử thách. William Culles Bryant đã viết:
“Đừng khóc khi thế giới thay đổi Nếu nó cứ giữ một tình trạng bền vững không đổi, thì thật sự có nguyên nhân để khóc”.
Khi bạn bước đi trong sự sáng (1Giăng 1:5-10) bạn có thể thấy điều gì đang xảy ra, và bạn kinh nghiệm sự đa dạng trong đời sống mình. Nhưng trong sự tối tăm, mọi sự có vẻ giống nhau. Không có gì lạ khi những người chưa được cứu (và những tín hữu sa ngã) quá chán nản và phải luôn tìm lối thoát! Đời sống đức tin bày tỏ những thử thách giữ cho bạn tiếp tục đi và giữ bạn tiếp tục tăng trưởng!
Trong chương này, Áp-ra-ham người có đức tin, thực hiện ba vai trò đặc biệt: người quan sát (Sáng Thế Ký 14:1-12), người đánh trận (c.13-16)và người thờ phượng (c.17-24). Trong cả ba vai trò Áp-ra-ham đã thực hành đức tin nơi Đức Chúa Trời và thực hiện những quyết định đúng đắn.
1. Áp-ra-ham người quan sát (Sáng Thế Ký 14:1-12)
Phân đoạn này ghi lại trận chiến đầu tiên được đề cập trong Kinh Thánh, và nó sẽ không được kể đến ở đây nếu nó không có liên quan đến Áp-ra-ham. Kinh Thánh ghi lại khá nhiều về lịch sử; nhưng như Tiến sĩ A. T. Pierson đã nói “Lịch sử là câu chuyện của Ngài”. Những gì được viết ra giúp chúng ta hiểu rõ hơn cách Đức Chúa Trời thực hiện kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Ngài trong thế gian này. Trong Kinh Thánh, những sự kiện lịch sử thường là những cửa sổ cho chân lý thuộc linh.
Năm thành ở đồng bằng Giô-đanh (Sáng Thế Ký 14:2 Sáng Thế Ký 13:10) đã chịu lệ thuộc các vua của bốn thành phía đông 12 năm (Sáng Thế Ký 14:1) và cuối cùng nổi dậy chống lại họ. Dĩ nhiên đây là một sự tuyên chiến; vì vậy bốn vua đã xâm lược đồng bằng Giô-đanh để đem năm vua vào trong sự lệ thuộc. Theo quan điểm ngày nay của chúng ta, sự xâm lược là một cuộc chạm trán nhỏ, nhưng vào thời đó, nó được xem là một cuộc xung đột quốc tế lớn.
Chắc chắn năm vua phải có thể đánh bại bốn vua, đặc biệt khi đang chiến đấu “trên đất của họ”. Nhưng quân đội của các thành đồng bằng đã bị các vua xâm lược đánh bại hoàn toàn! Rõ ràng năm vua thậm chí không biết xứ của mình vì họ đã bị mắc bẫy trong hố bùn (Sáng Thế Ký 14:10). Tất cả những gì quân đội họ có thể làm là chạy trốn ở những ngọn đồi.
Khi nhìn lại những đội quân của mình, công tước Wellingor được cho rằng đã nói: “Tôi không biết những người này sẽ có ảnh hưởng gì trên kẻ thù, nhưng họ làm tôi sợ!” Ê-xê-chiên 16:49-50 gợi ý rằng lối sống của dân Sô-đôm và Gô-mô-rơ không chuẩn bị cho họ về cuộc xung đột (so sánh Ê-xê-chiên 16:49-50 1Giăng 2:15-17).
Bất cứ mục đích nào các vua có thể có trong cuộc chiến này, Đức Chúa Trời đã nghĩ đến điều gì đó đặc biệt cho Lót: ông đã trở thành một tù binh chiến tranh. Lót đã nhìn xem Sô-đôm và đi đến Sô-đôm (Sáng Thế Ký 13:10-13)và giờ đây ông đang sống trong Sô-đôm (Sáng Thế Ký 14:12 Thi Thiên 1:1). Bạn không thể đoán điều đó từ hạnh kiểm của ông, nhưng Lót là một người công bình (2Phi-e-rơ 2:6-8). Ông đã thất bại ở đâu?
Trong khi ở Ai Cập với Áp-ra-ham, Lót đã có một nếm trải về thế gian và hưởng thụ nó. Kinh Thánh không ghi rằng Lót từng xây một bàn thờ và tìm kiếm Chúa, như Áp-ra-ham chú ông đã làm. Áp-ra-ham là bạn của Đức Chúa Trời (Gia-cơ 2:3), nhưng Lót là bạn của thế gian (Sáng Thế Ký 4:4). Đồng thời, Lót sống theo thế gian (Rô-ma 12:2), và khi Sô-đôm thua trận, Lót bị kết án cùng với thế gian (1Cô-rinh-tô 11:32). Nếu bạn đồng hóa với thế gian, vậy hãy nghĩ đến việc chịu khổ điều mà thế gian chịu khổ.
Việc Lót bị bắt là cách Đức Chúa Trời kỷ luật ông và nhắc ông nhớ rằng ông không có việc gì để sống trong Sô-đôm. Chắc chắn Áp-ra-ham đang trung tín cầu nguyện cho cháu ông để cháu ông có thể biệt riêng mình khỏi thế gian và bắt đầu sống như một “khách lạ và người bộ hành” thật sự. Đức Chúa Trời kỷ luật con cái Ngài vì Ngài yêu họ và muốn điều tốt nhất cho họ (Châm Ngôn 3:11-12 Hê-bơ-rơ 12:1-11). Nếu chúng ta không lắng nghe những lời quở trách của Ngài, vậy Ngài phải gợi sự chú ý của chúng ta cách nào đó, và cách đó thường rất đauđớn.
2. Áp-ra-ham người đánh trận (Sáng Thế Ký 14:13-16)
Thái độ của ôngÁp-ra-ham không tham dự trong cuộc chiến cho đến khi ông nghe rằng Lót đã bị bắt, và sau đó ông bắt đầu hành động. Áp-ra-ham được biệt riêng, nhưng không cô lập; ông độc lập, nhưng không hờ hững. Thật ra, ông và một số trưởng tộc địa phương đã lập một liên minh chỉ cho những trường hợp khẩn cấp như thế (Sáng Thế Ký 14:13). Ông là “Áp-ra-ham, người Hê-bơ-rơ” (Sáng Thế Ký 14:13), nghĩa là “người ngoại cuộc, người không có địa vị vững chắc trong xã hội”. Ông không phải là “Áp-ra-ham người cứng lòng”. Ông là một “người bộ hành và khách lạ” trong xứ, nhưng đó không phải là cớ để không hành động.
Mặc dù tín hữu không nên thỏa hiệp với những người chưa được cứu trong những vấn đề về cách ăn ở và chức vụ thuộc linh (2Cô-rinh-tô 6:14-7:1), nhưng họ có thể hợp tác khi nói đến việc chăm sóc con người và “đẩy mạnh phúc lợi chung”, khi bạn thấy người khác ở trong sự rắc rối, bạn đừng yêu cầu họ một lời làm chứng trước khi giúp họ (Lu-ca 10:25-37 Ga-la-ti 6:10). Sự phục vụ đầy hy sinh là một cách bày tỏ tình yêu của Đấng Christ cho người khác (Ma-thi-ơ 5:16). Nếu các Cơ Đốc nhân không mang phần gánh nặng chung của đời sống, làm sao họ có thể là muối của đất và sự sáng của thế gian?
Ví dụ, Giô-sép đã hầu việc ở Ai Cập, và Đức Chúa Trời sử dụng ông để duy trì gia đình ông và dân tộc Do Thái. Nê-hê-mi đã hầu việc một vua ngoại đạo, nhưng Đức Chúa Trời sử dụng quyền hạn và những nguồn tài nguyên của vua ấy để giúp Nê-hê-mi có thể xây lại Giê-ru-sa-lem. Ê-xơ-tê là một người nữ Do Thái đã lấy một vua người ngoại, và Đức Chúa Trời sử dụng bà để bảo vệ dân Do Thái khỏi sự hủy diệt gần như chắc chắn. Đa-ni-ên ở Ba-by-lôn chưa bao giờ thỏa hiệp với những lời kết tội dành cho ông, nhưng ông đã giúpnhiều vua và được Đức Chúa Trời đại dụng. Chúng ta có thể hợp tác với những người khác nhau ở những lúc khác nhau để đạt những mục đích khác nhau, nhưng chúng ta phải luôn ý thức về bổn phận của mình để làm vinh hiển Đức Chúa Trời.
Áp-ra-ham đã đối xử với cháu của ông bằng tình yêu, cả khi ông cho Lót quyền lựa chọn đất đầu tiên (Sáng Thế Ký 13:9) và khi ông liều mạng để cứu Lót. Lót đã không tử tế với Áp-ra-ham, và Áp-ra-ham có mọi cớ để cho cháu ông chịu những hậu quả đau đớn của những quyết định dại dột của mình. Nhưng Lót là “anh em” của ông (Sáng Thế Ký 14:16), vì vậy Áp-ra-ham đã thực hành tình yêu anh em và thắng điều ác bằng điều thiện (Rô-ma 12:17-21 Ga-la-ti 6:1-2).
Quân đội của ôngDù là người của sự hòa bình, Áp-ra-ham đã được chuẩn bị cho cuộc chiến, Ông không đánh trận từ những động cơ ích kỷ để tư lợi, ông đánh trận vì ông yêu Lót và muốn giúp Lót. Khi bạn xem xét những đặc điểm của quân đội Áp-ra-ham, bạn thấy điều gì cần có trong lĩnh vực thuộc linh để có sự chiến thắng thế gian.
a. Họ được sinh ra trong nhà của ông (c.14). Nói về mặt thuộc linh, điều này nhắc chúng ta rằng “Hễ sự gì sanh bởi Đức Chúa Trời thì thắng hơn thế gian” (1Giăng 5:4). Sự sinh ra đầu tiên của chúng ta khiến chúng ta trở thành con cháu của A-đam, và ông là người thất bại, nhưng sự sinh ra lần thứ hai của chúng ta khiến chúng ta trở thành con cái Đức Chúa Trời, và Chúa Giê-xu là Đấng Chiến Thắng. Ngài đã thắng mọi kẻ thù (Ê-phê-sô 1:19-23), và Ngài chia sẻ chiến thắng của Ngài với tất cả những ai sẽ tin cậy Ngài. Và đây là chiến thắng vượt trên thế gian: đức tin của chúng ta” (1Giăng 5:4 NKJV).
b. Họ được trang bị (c.14). Còn có nhiều hơn là lòng nhiệt thành và sự can đảm để thắng một cuộc chiến. Bạn cũng phải có sự trang bị hữu hiệu. Chiến sĩ Cơ Đốc phải mang toàn bộ áo giáp của Đức Chúa Trời và sử dụng những vũ khí thuộc linh Đức Chúa Trời đã cung cấp (Ê-phê-sô 6:10-18). Những vũ khí của chúng ta mang tính thuộc linh, không phải tính xác thịt (2Cô-rinh-tô 10:3-5), và chúng ta sử dụng chúng trong quyền năng của Thánh Linh, Lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện là hai vũ khí hữu hiệu nhất (Công vụ 6:4), và chúng ta phải sử dụng chúng bằng đức tin. Như bài hát nổi tiếng bày tỏ điều đó. “Hãy mặc lấy áo giáp Tin Lành / mỗi bộ phận được mang với sự cầu nguyện”.
c. Họ được huấn luyện (c.14). Cho dù sự trang bị của họ tốt đẹp thế nào, nếu các chiến sĩ không được huấn luyện, họ sẽ dễ dàng bị đánh bại. Một trong những mục đích của Hội Thánh địa phương là huấn luyện dân sự Đức Chúa Trời cách sử dụng Kinh Thánh hữu hiệu, cách cầu nguyện, cách nhận biết kẻ thù, và cách làm theo những mệnh lệnh như chiến sĩ trong đội quân của Đấng Christ. Bạn càng biết rõ Kinh Thánh, bạn càng được trang bị tốt hơn để đánh trận (2Ti-mô-thê 3:16-17). Vị chỉ huy sự cứu rỗi của bạn muốn huấn luyện bạn và “khiến anh em nên trọn vẹn” (Hê-bơ-rơ 13:20-21), từ Hy Lạp nghĩa là “trang bị cho một đội quân”. Nếu chúng ta thất bại trong trận chiến, đó không phải là lỗi của sự trang bị hay chến lược của Vị chỉ huy. Có gì đó không ổn với các chiến sĩ.
d. Họ tin nơi người lãnh đạo của mình. Áp-ra-ham và các đồng minh của ông đã đi 120 dặm để thực hiện một cuộc tấn công bất ngờ trên bốn vua, và họ giành một chiến thắng hoàn toàn. Rõ ràng Áp-ra-ham có những hướng dẫn từ Chúa, vì vậy toàn bộ việc làm là một chiến thắng của đức tin. Sự ứng dụng thuộc linh thật rõ ràng: Nếu dân sự Đức Chúa Trời muốn đánh bại kẻ thù mình, họ phải tin cậy Chúa và vâng theo những mệnh lệnh của Ngài. Đây là cách Giô-suê đã chinh phạt Đất Hứa và Đa-vít đã đánh bại những kẻ thù của Y-sơ-ra-ên, và đây là cách Hội Thánh phải đánh trận ngày nay.
e. Họ được hiệp nhất. Không có ba quân đội với ba lãnh đạo. Chỉ có một quân đội, và Áp-ra-ham đảm trách. Nếu dân sự Đức Chúa Trời ngày nay được hiệp nhất trong sự yêu thương, họ sẽ giành được những chiến thắng dường bao! Chúng ta hát “giống như một đội quân mạnh mẽ / chuyển động Hội Thánh Đức Chúa Trời”. Nhưng Hội Thánh chẳng giống một quân đội, đặc biệt khi nói về kỷ luật về việc hành quân cùng nhau. Một người bạn mục sư đã nói: “Rắc rối với Hội Thánh đó là có quá nhiều tướng và không đủ lính!”
f. Họ chỉ có mục đích: Mục đích của họ không phải là thù riêng hay tư lợi (Sáng Thế Ký 14:22-23), nhưng là chiến thắng kẻ thù để những người bị bắt có thể được tự do. Một chiến sĩ hai lòng chắc chắn sẽ thất bại. “Khi một người đi ra trận, thì chẳng còn lấy việc đời làm lụy mình, làm vậy đặng đẹp lòng kẻ chiêu mộ mình” (2Ti-mô-thê 2:4). Khi bạn nhớ A-can (Giô-suê 7:1-26), Sam-sôn (Các Quan Xét 13:1-16:32), và Sau-lơ (1Sa-mu-ên 15:35), bạn thấy nhận định này đúng ra sao.
Thành quả của ông Áp-ra-ham và các đồng minh của ông mạnh mẽ đến nỗi họ đã đuổi theo kẻ thù 100 dặm, giải thoát mọi kẻ bị bắt và thu tất cả các chiến lợi phẩm. Phải chăng Áp-ra-ham và người cháu trần tục của ông đã có một cuộc nói chuyện dài khi họ trở về? Phải chăng Lót đã giữ những lời hứa mà ông đã lập trong khi ông ở trong nguy hiểm? Ông có thực hiện bất cứ lời hứa nào với Áp-ra-ham không?
Chúng ta không thể trả lời những câu hỏi đó, nhưng chúng ta biết điều này. Sự sửa phạt của Chúa và sự nhân từ của Chúa trong việc giải cứu Lót đều không đem đến ích lợi gì cho ông. Sự nhân từ của Đức Chúa Trời lẽ ra phải dẫn ông đến sự ăn năn (Lê-vi Ký 15:14-19 Rô-ma 2:4), nhưng thay vì ăn năn, Lót đã trở lại Sô-đôm. Lẽ ra ông có thể hiệp với Áp-ra-ham, nhưng ông quyết định trở lại với tội lỗi.
Alexander Whyte đã viết trong tác phẩm cổ điển của ông “Bible Characters” (Những nhân vật của Kinh Thánh) rằng: “Áp-ra-ham là cha của những người trung tín, và Lót, cháu ông, là cha của tất cả những ai khó được cứu”. Một số người sẽ được cứu “dường như qua lửa” (1Cô-rinh-tô 3:15), nhưng tốt hơn là nên có “một lối vào rộng rãi” trong nước đời đời của Chúa (2Phi-e-rơ 1:11).
3. Áp-ra-ham người thờ phượng (Sáng Thế Ký 14:17-24)
Một cuộc chiến mới: Đôi khi bạn đối diện với những hiểm họa lớn nhất sau khi bạn đã thắng một cuộc chiến. Chính sau khi chiếm thành Giê-ri-cô mà lòng tự tin của Y-sơ-ra-ên đã dẫn họ vào sự thất bại ở thành A-hi (Giô-suê 7:1-26). Và sau thành công của mình trên núi Cạt-mên, Ê-li đã khiếp vía và chạy trốn trong sự sợ hãi (1Các vua 19:1-21). Không có gì ngạc nhiên khi mục sư thánh thiện người Ê-cốt Andrew Bonar (1810-1892) đã nói: “Chúng ta hãy cảnh giác sau chiến thắng cũng như trước cuộc chiến”.
Khi Áp-ra-ham từ trận chiến trở về, ông được hai vua ra đón: Bê-ra, vua Sô-đôm (“cháy”) và Mên-chi-xê-đéc, vua Sa-lem (“hòa bình”). Bê-ra trao cho Áp-ra-ham mọi chiến lợi phẩm để đổi lại dân sự, còn Mên-chi-xê-đéc cho Áp-ra-ham bánh và rượu. Áp-ra-ham từ chối đề nghị của Bê-ra nhưng chấp nhận bánh và rượu của Mên-chi-xê-đéc và trao cho ông phần mười của chiến lợi phẩm. Tất cả mọi điều này mang tính biểu tượng và trình bày một số chân lý thuộc linh quan trọng mà bạn phải hiểu và áp dụng ngày nay.
Áp-ra-ham đã phải chọn lựa giữa hai vua là những người đại diện cho hai lối sống trái ngược. Sô-đôm là một thành gian ác (Sáng Thế Ký 13:13 Ê-xê-chiên 16:49-50), và Bê-ra đại diện cho quyền thống trị hệ thống thế gian này với sự mời gọi của nó đối với xác thịt (Ê-phê-sô 2:1-3). Bê-ra nghĩa là “món quà”, gợi ý rằng thế gian mong đợi lòng trung thành của bạn. Nhưng Sô-đôm nghĩa là “cháy”, vì vậy hãy cẩn thận cách bạn chọn lựa!Nếu bạn quỳ trước Bê-ra, mọi sự bạn sống vì nó sẽ bốc cháy một ngày nào đó. Đó là điều đã xảy đến với Lót!
Mên-chi-xê-đéc nghĩa là “vua công bình” và Sa-lem nghĩa là “hòa bình”. Hê-bơ-rơ 7:1-28 và Thi Thiên 110:1-7 đều liên hệ Mên-chi-xê-đéc với Chúa Giê-xu Christ. “Vua hòa bình” và “Vua Công bình” (Thi Thiên 85:10). Giống như Mên-chi-xê-đéc trong thời Áp-ra-ham, Chúa Giê-xu Christ là Vua - Thầy tế lễ của chúng ta ở trên trời, giúp chúng ta có thể hưởng sự công bình và sự bình an khi chúng ta hầu việc Ngài (Ê-sai 32:17 Hê-bơ-rơ 12:11). Chắc chắn chúng ta có thể thấy nơi bánh và rượu một sự nhắc nhở về sự chết của Chúa thay cho chúng ta trên thập tự giá.
Vì vậy, khi Áp-ra-ham từ chối Bê-ra và chấp nhận Mên-chi-xê-đéc, ông đang lập một nhận định về đức tin, nói rằng: “Hãy đem thế gian đi, nhưng hãy cho tôi Chúa Giê-xu”. Lót lẽ ra nên thực hiện quyết định tương tự, nhưng ông quyết định trở lại với đời sống thỏa hiệp của mình.
Vì sao sẽ sai lầm để Áp-ra-ham nhận chiến lợi phẩm?Xét cho cùng, ông đã chẳng liều mạng mình và mạng của các gia nhân ông để đánh bại các vua xâm lược và giải cứu những tù nhân đó sao? Nói về lý, Áp-ra-ham có mọi quyền đối với chiến lợi phẩm nhưng về mặt đạo đức, chúng ở ngoài những giới hạn. Nhiều điều trên thế gian này là hợp lý đối với tòa án nhưng sai về đạo đức đối với dân sự Đức Chúa Trời.
Hơn nữa trước khi Áp-ra-ham có thể nhận chiến lợi phẩm, ông phải đồng ý trả dân Sô-đôm về với vua họ là người đã nói: “Hãy giao người cho ta” (Sáng Thế Ký 14:21). Giống như Đức Chúa Trời muốn sử dụng thân thể con người vì vinh hiển Ngài (Rô-ma 12:1-2 1Cô-rinh-tô 6:19-20), thì kẻ thù cũng muốn sử dụng thân thể con người cho những mục đích xấu xa (Rô-ma 6:12-13). Thật vậy, kẻ thù đã nói: “Hãy trao thân thể ngươi cho ta” với Giô-sép (Sáng Thế Ký 39:1-23) và Đa-ni-ên (Đa-ni-ên 1:21), nhưng họ đã nói “không!”. Nhưng khi kẻ thù nói lời tương tự với Sam-sôn (Các Quan Xét 16:1-32), Đa-vít (2Sa-mu-ên 11:1-27) và Giu-đa (Giăng 13:27), họ đã nói “vâng!” Và quả là một cái giá họ đã trả!
Áp-ra-ham không chấp nhận đề nghị của vua Bê-ra. Ngược lại, dường như Áp-ra-ham đã cho mọi người được ông giải cứu cơ hội để đến với ông và tin cậy Đức Chúa Trời hằng sống chân thật. Áp-ra-ham là một trưởng tộc mạnh mẽ, và các láng giềng của ông biết về trại và bàn thờ của ông. Nhưng không có biểu hiện nào cho thấy bất cứ ai trong họ (kể cả gia đình của Lót)chấp nhận lời mời của ông. Ngoại trừ Lót và hai con gái ông, họ đều đã bỏ mạng trong sự hủy diệt thành Sô-đôm.
Một phước hạnh mới. Mên-chi-xê-đéc có điều gì đó tốt hơn để ban cho Áp-ra-ham: phước hạnh của “Đức Chúa Trời rất cao, là chủ của trời và đất”. Áp-ra-ham đã sống bởi phước hạnh của Chúa, chớ không phải sự đút lót của thế gian. Ông không muốn bất cứ ai nghĩ rằng thế gian đã làm cho ông giàu có. Thậm chí một vật nhỏ như dây giày cũng có thể ảnh hưởng đến cách ăn ở của ông! Có quá nhiều tôi tớ Đức Chúa Trời đã làm suy yếu lời chứng của họ bằng cách chấp nhận sự tán tụng và những món quà từ người thế gian. Bạn không thể cùng lúc vừa là một tôi tớ của Đức Chúa Trời vừa là một người nổi danh trong thế gian.
Mên-chi-xê-đéc đã gặp Áp-ra-ham sau cuộc chiến để làm cho ông mạnh mẽ vì sự chiến thắng. Chúa biết những cám dỗ chúng ta đương đầu sau khi chúng ta đã đánh bại kẻ thù. Áp-ra-ham đã gặp Chúa trước cuộc chiến và hứa không nhận gì cho bản thân từ những chiến lợi phẩm của chiến thắng. Ông chỉ có một mục đích khi ông lãnh đạo đội quân của mình, và Đức Chúa Trời đã ban cho ông chiến thắng.
Áp-ra-ham không áp đặt những nhận thức của ông trên các đồng minh của ông A-ne, Ếch-côn và Mam-rê (Sáng Thế Ký 14:24). Nếu họ muốn nhận phần chiến lợi phẩm, đó là việc của họ, và ông sẽ không chỉ trích họ. Ông cũng không mong họ dâng phần mười cho Mên-chi-xê-đéc. Áp-ra-ham là một người bộ hành và khách lạ, còn các đồng minh của ông là người thế gian có hạnh kiểm được điều khiển bởi một tập hợp những tiêu chuẩn khác. “Người khác có thể bạn không thể”.
Sáng Thế Ký 14:20 là sự đề cập đầu tiên về việc dâng phần mười trong Kinh Thánh. Dâng phần mười là dâng cho Đức Chúa Trời 10% tiền bạc, nông sản hoặc thú vật (từ Hê-bơ-rơ là “mười”). Khi chúng ta dâng phần mười, chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời làm chủ mọi sự và chúng ta là những quản gia biết ơn về của cải Ngài. Dân Do Thái đã dâng phần mười hằng năm cho Chúa (Lê-vi Ký 27:30-33)cũng như phần mười mỗi năm thứ 3 cho người nghèo (Phục truyền 26:12-15). Họ cũng có thể dâng phần mười của 90% còn lại cho “của dâng về lễ hội” đặc biệt để vui hưởng ở Giê-ru-sa-lem (Phục truyền 12:5-19).
Việc dâng phần mười đã xảy ra trước luật Môi-se, vì không chỉ Áp-ra-ham đã dâng phần mười, mà Gia-cốp cũng vậy (Sáng Thế Ký 28:22). Vì lý do này, nhiều Cơ Đốc nhân tin rằng dân sự Đức Chúa Trời ngày nay phải bắt đầu việc dâng hiến của mình bằng phần mười. Một chấp sự tin kính có lần đã nói với tôi:“Nếu dân Do Thái thời Cựu Ước ở dưới luật pháp đã có thể dâng phần mười, Cơ Đốc nhân thời Tân Ước dưới ân điển phải dâng nhiều hơn biết bao!”. Kế hoạch dâng hiến thời Tân Ước được phác thảo trong 2Cô-rinh-tô 8:1-9:27 nhưng việc dâng phần mười là một vị trí tốt để khởi đầu.
Chúng ta phải cẩn thận dâng hiến vì sự tin kính của tấm lòng chúng ta, chớ không phải như một “của hối lộ” cho những phước hạnh của Đức Chúa Trời. R. G. Le Tourneau, cố kỹ nghệ gia Cơ Đốc nổi tiếng và là người nhân đức, đã từng nói: “Nếu bạn dâng phần mười vì nó có lợi nó sẽ không có lợi!”
Nhưng Áp-ra-ham cho chúng ta một gương tốt về sự dâng hiến. Ông đã đem những món quà của mình cho Chúa Giê-xu Christ qua con người của Mên-chi-xê-đéc (Hê-bơ-rơ 7:1-10). Chúng ta đừng dâng phần mười và của dâng hiến của mình cho nhà thờ, mục sư hay các thuộc viên của ban tài chính. Nếu sự dâng hiến của chúng ta là một hành động thờ phượng thật, chúng ta sẽ dâng cho Chúa và vì lý do đó, chúng ta cần dâng điều tốt nhất của mình (Ma-thi-ơ 1:6-8).
Ở một trong những Hội Thánh tôi làm mục sư, chúng tôi đã không nhận tiền dâng hiến vào những chủ nhật nhưng cung cấp những chiếc hộp đặc biệt ở lối ra trước và sau các lễ thờ phượng. Một chú bé ngày kia tham quan Hội Thánh đã hỏi bạn mình rằng những cái hộp được làm gì, và bạn cậu cho cậu biết “Đó là nơi chúng ta đặt tiền dâng của chúng ta”.
Cậu khách hỏi: “Điều gì xảy ra với tiền này?”
Cậu bé kia đáp: “Tôi nghĩ họ trao nó cho ông Eastep” (Tiến sĩ D. B. Eastep là mục sư lúc đó).
Càng bối rối hơn, chú bé hỏi: “À, ông Eastep làm gì với nó?”
Lần này cậu bé đã sẵn sàng: “Tôi không biết ông ấy làm thế nào với nó, nhưng ông ấy dâng nó cho Đức Chúa Trời!”
Khi mục sư tin kính làm việc trước tôi nghe câu chuyện đó, ông cười một cách vui vẻ.Ông biết (cũng như chúng ta đều biết) rằng mỗi người thờ phượng phải đem những món quà của mình đến cho Chúa và dâng hiến từ một tấm lòng biết ơn. Mọi dân sự Đức Chúa Trời đều là những thầy tế lễ và có thể đem những của lễ của mình đến cho Ngài (1Phi-e-rơ 2:5, 9).
Áp-ra-ham đã sẵn sàng trong việc dâng hiến của mình. Những nguyên tắc về chức quản gia của ông cố định vững chắc trong lòng ông nên không có lý do gì để trì hoãn.
Ông cũng quân bình trong việc dâng hiến của mình, một phương sách được Phao-lô khích lệ (1Cô-rinh-tô 16:1-2). Việc dâng phần mười là một vị trí tốt để khởi đầu; nhưng khi Chúa chúc phước, chúng ta phải gia tăng tỷ lệ đó nếu chúng muốn thực hành loại “dâng hiến rời rộng” được mô tả trong 2Cô-rinh-tô 8:1-9:27.
Áp-ra-ham đã dâng hiến vì ông yêu mến Đức Chúa Trời và muốn nhận biết sự vĩ đại cùng sự nhân từ của Ngài. Thật là một tương phản giữa “Đức Chúa Trời chí cao” và các hình tượng ngoại đạo! Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham là Đấng dựng nên trời và đất (Sáng Thế Ký 14:19 Ê-sai 40:1-30). Ngài xứng đáng được mọi sự thờ phượng và ngợi khen của mọi dân Ngài!
Trước cuộc chiến, Áp-ra-ham đã giơ tay lên bởi đức tin trong một lời thề nguyện long trọng trước Đức Chúa Trời rằng ông sẽ không nhận gì từ chiến lợi phẩm. Ông chỉ có một tấm lòng và tâm trí duy nhất khi ông lãnh đạo đội quân (Ma-thi-ơ 6:24).
Suốt cuộc chiến Áp-ra-ham đã vận dụng gươm của ông bằng đức tin và tin cậy Đức Chúa Trời về chiến thắng.
Sau cuộc chiến, bởi đức tin Áp-ra-ham đã khép kín bàn tay mình trước vua Sô-đôm nhưng mở tay trước vua Sa-lem, nhận bánh và rượu, rồi dâng phần mười.
“Và đây là chiến thắng vượt trên thế gian: đức tin của chúng ta” (1Giăng 5:4 NKJV).
Chú ý: Bạn có thể nghiên cứu thêm về Mên-chi-xê-đéc trong “Be Confident” (Hãy có lòng tin quyết), giải nghĩa thơ Hê-bơ-rơ, và “sự dâng hiến rời rộng” được giải thích trong “Be encouraged” (Hãy can đảm), giải nghĩa thơ IICô-rinh-tô.
15. ĐÊM TĂM TỐI CỦA LINH HỒN (Sáng Thế Ký 15:1-21)
“Một người thật sự kính sợ Đức Chúa Trời và vâng lời Ngài, có thể ở trong một hoàn cảnh tăm tối, không có ánh sáng, và người ấy có thể bước đi nhiều ngày, nhiều năm trong hoàn cảnh đó…”
Nhà thần học Thanh giáo Thomas Goodwin (1600-1679) đã viết như thế và tiên tri Ê-sai đồng ý với ông: “Ai trong các ngươi kính sợ Đức Giê-hô-va? Ai vâng theo tiếng của tôi tớ Ngài? Ai đi trong tối tăm và không có sự sáng? Người ấy hãy tin cậy danh Đức Giê-hô-va và nương nhờ Đức Chúa Trời mình” (Ê-sai 50:10 NKJV).
Có những lúc Cơ Đốc nhân tận tụy nhất cũng cảm thấy “ở trong sự tối tăm” và không biết vì sao Đức Chúa Trời dường như quá xa. Suốt cuộc nổi dậy Boxer Rebellion, Hội Truyền Giáo China Inland Mission đã chịu khổ rất nhiều; và J. Hudson Taylor, người sáng lập hội, đã nói với một người bạn “Tôi không thể đọc; tôi không thể suy nghĩ, tôi thậm chí không thể cầu nguyện, nhưng tôi có thể tin cậy”. Đó là một thời kỳ tối tăm, nhưng Đức Chúa Trời cuối cùng đã ban ánh sáng.
Áp-ra-ham đã có một kinh nghiệm mà những người hướng dẫn thuộc linh gọi là “đêm tăm tối của linh hồn”. Thuật ngữ này đến từ một tác phẩm cổ điển thuộc linh thế kỷ 16 có tựa đề “St. John of the Cross” (Thánh Giăng của thập tự giá). Dựa trên những cảnh đêm tối được mô tả trong Nhã ca, sách cho biết thể nào con cái Đức Chúa Trời bước vào tình yêu và đức tin sâu sắc hơn bằng cách kinh nghiệm sự tối tăm tạm thời và dường như là sự xa cách với Đức Chúa Trời. Đó không phải là một điều dễ dàng để kinh nghiệm, nhưng đôi lúc nó cần thiết.
1. Sự an toàn của Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 15:1)
Lắng nghe chính mình. Chương trước tập trung về những hành động của Áp-ra-ham nhưng chương này đề cập đến những cảm xúc của ông, kể cả “cơn kinh hãi về sự tối tăm lớn” (Sáng Thế Ký 15:12). Người có đức tin cũng là người có những cảm xúc, và những cảm xúc không nên bị coi thường hay bỏ qua. Nhiều Cơ Đốc nhân chính thống có khuynh hướng nhấn mạnh về tinh thần với ý chí và đánh giá thấp những cảm xúc, nhưng đây là một sai lầm nghiêm trọng có thể dẫn đến một đời sống bất quân bình.
Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, và điều này kể đến những cảm xúc của chúng ta. Mặc dù thật thiếu khôn ngoan khi tin cậy những cảm xúc của bạn và bỏ qua tâm trí của bạn, hay để những cảm xúc của bạn vượt khỏi sự kiểm soát; Nhưng cũng thiếu khôn ngoan khi phủ nhận và đè nén những cảm xúc của bạn rồi trở thành một rô-bốt tôn giáo. Trong Thi thiên, Đa-vít và những tác giả khác đã cho Đức Chúa Trời biết một cách thành thật họ cảm thấy thế nào về Ngài, chính bản thân họ, và những hoàn cảnh của họ, và đây là một gương tốt đề chúng ta noi theo. Chúa Giê-xu là một con người thật, và Ngài công khai bày tỏ những cảm xúc vui mừng, buồn rầu, cơn giận thánh khiết và tình yêu của Ngài.
Nhưng giờ đây cuộc chiến đó đã thành công, vậy tại sao Áp-ra-ham sợ hãi? Trước hết, ông là con người, và những cảm xúc của chúng ta có thể “tan vỡ” sau một thời gian hiểm họa và khó khăn lớn. Điều này giúp phải thích lý do Ê-li quá nản lòng sau chiến thắng Ba-anh trên núi Cạt-mên (1Các vua 19:1-21). Sau đỉnh núi thì đến thung lũng.
Một yếu tố khác là khả năng bốn vua có thể trở lại với quân tiếp viện và tấn công trại quân của Áp-ra-ham. Áp-ra-ham biết rằng các vua Đông phương không nhận thất bại một cách nhẹ nhàng hay để cho sự thù hằn tan biến nhanh chóng. Và giả sử nếu Áp-ra-ham bị giết? Điều gì sẽ xảy ra cho giao ước và lời hứa của Đức Chúa Trời?
Lắng nghe Đức Chúa Trời. Bạn chắc chắn phải “lắng ghe những cảm xúc của mình” và thành thật về chúng. Bác sĩ tâm thần Da-vid Viscott viết: “khi một người gánh vác trách nhiệm đối với những cảm xúc của mình, người ấy gánh vác trách nhiệm đối với thế giới của mình”. Nhưng đừng dừng lại ở đó; Hãy để thời gian lắng nghe Đức Chúa Trời, và tiếp nhận những lời khích lệ của Ngài. Đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh bạn tìm thấy nhóm từ “có lời Đức Giê-hô-va”. Nó được sử dụng hơn 100 lần trong Cựu Ước, Đức tin chiến thắng sự sợ hãi là đức tin nơi Lời Chúa, chớ không phải niềm tin nơi những cảm xúc.
Đức Chúa Trời phán với bạn Ngài bằng tên (Giăng 10:3). Khi tôi còn là một cậu bé, tôi thường đi mua sắm thay mẹ tôi; và những người bán hàng trong các cửa hàng sẽ gọi tôi bằng lên và hỏi về gia đình của tôi. Khi cha mẹ tôi đến ngân hàng, những thủ quỹ thường biết họ là ai và chào hỏi họ. Với rất ít sự ngoại lệ, những người bán hàng tôi gặp ngày nay xem tôi chỉ như một con số trong máy vi tính. Dường như không thể tin được, nhưng Đức Chúa Trời Đấng đặt tên và đếm mọi ngôi sao, cũng biết tên bạn và quan tâm về những nhu cầu của bạn (Thi Thiên 147:3-4).
Đây cũng là lần đầu tiên bạn tìm thấy những từ làm cho vững tâm “đừng sợ” trong Kinh Thánh. Đức Chúa Trời lập lại những từ đó với Y-sác (Sáng Thế Ký 26:24), Gia-cốp (Sáng Thế Ký 46:3) và thường với dân Y-sơ-ra-ên (Xuất Ê-díp-tô 14:13 Xuất Ê-díp-tô 20:20 Dân Số Ký 14:9 Phục truyền 1:21). Những lời hứa “đừng sợ” trong Ê-sai thật tốt lành để đọc và suy gẫm khi bạn thấy mình đối phó với sự sợ hãi (Ê-sai 41:10, 13, 14 Ê-sai 43:1, 5 Ê-sai 44:2, 8).
Phương thuốc của Đức Chúa Trời cho sự sợ hãi của Áp-ra-ham là nhắc ông nhớ Ngài là ai? “Ta là cái thuẫn của ngươi, và là phần thưởng rất lớn của ngươi” (Sáng Thế Ký 15:1). Lời nói “TA LÀ” của Đức Chúa Trời hoàn toàn thích hợp cho lời nói “tôi không phải là” của con người “Hãy yên lặng, và biết rằng ta là Đức Chúa Trời” (Thi Thiên 46:10). Đời sống của bạn chỉ lớn như đức tin của bạn và đức tin của bạn chỉ lớn như Đức Chúa Trời của bạn. Nếu bạn dành mọi thời gian để nhìn chính mình, bạn sẽ nản lòng, nhưng nếu bạn nhìn Đức Chúa Trời bằng đức tin, bạn sẽ được khích lệ.
Đức Chúa Trời là cái thuẫn và phần thưởng của chúng ta là sự bảo vệ và là nguồn chu cấp của chúng ta. Áp-ra-ham không cần phải lo lắng về cuộc chiến khác, vì Chúa sẽ bảo vệ ông. Và ông không cần phải hối tiếc vì mất của cải do vua Sô-đôm ban cho mình vì Đức Chúa Trời sẽ ban thưởng cho ông trong những phương diện lớn hơn nhiều. Đây là điều ở Cựu Ước tương đương với Ma-thi-ơ 6:33 Phi-líp 4:19.
Sự bảo vệ và chu cấp là những phước hạnh mà thế gian đang tìm kiếm và những chính trị gia đang hứa hẹn khi nào họ nắm quyền. Các ứng cử viên đề nghị với những cử tri sự bảo vệ khỏi chiến tranh, cùng hiểm họa trên đường phố cũng như sự chu cấp việc làm, sự chăm sóc sức khoẻ, giáo dục và tuổi già. Một số lời hứa đã được giữ đúng, nhưng nhiều lời hứa đã bị quên lãng. Đức Chúa Trời toàn năng là Đấng duy nhất có thể đề nghị với bạn sự bảo vệ cùng sự chu cấp và giữ những lời hứa của Ngài. “Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời là mặt trời và cái khiên; Đức Giê-hô-va sẽ ban ân điển và vinh hiển. Ngài sẽ chẳng từ chối điều tốt lành gì cho ai ăn ở ngay thẳng” (Thi Thiên 84:11).
2. Người thừa kế của Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 15:2-6)
Hỏi (Sáng Thế Ký 15:2-3). Đức Chúa Trời đã hứa với Áp-ra-ham rằng con cháu của ông sẽ nhiều như bụi đất (Sáng Thế Ký 13:16) và họ sẽ đem phước hạnh đến cho cả thế gian (Sáng Thế Ký 12:1-3). Nhưng Áp-ra-ham và Sa-ra vẫn chưa có con, và nếu Áp-ra-ham chết, người thừa kế duy nhất mà ông có là “quản gia” của ông - Ê-li-ê-se. (Người ấy có thể là người đầy tớ được đề cập trong Sáng Thế Ký 24:2). Lót không còn ở trong bức tranh này, và những bà con khác của Áp-ra-ham ở Mê-sô-bô-ta-mi cách Xa-cha-ri 500 dặm. Điều gì đã xảy ra cho lời hứa này?
Mối quan tâm của Áp-ra-ham không phải chỉ cho bản thân ông và vợ ông, dù giống như mọi cặp vợ chồng ở Đông phương, họ muốn có con cái. Mối quan tâm của ông là vì sự thực hiện kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho cả thế giới. Đức Chúa Trời đã có một kế hoạch vinh hiển, và Ngài lập một lời hứa nhân từ, nhưng Đức Chúa Trời dường như không làm gì cả! Áp-ra-ham với Sa-ra đang trở nên già hơn, và thời gian đang hết.
Một trong những bài học cơ bản trong “trường đức tin” là: ý muốn của Đức Chúa Trời sẽ phải được thực hiện theo cách của Đức Chúa Trời và trong giờ của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không mong Áp-ra-ham và Sa-ra tính toán làm sao để có một người thừa kế. Tất cả những gì Ngài yêu cầu là họ sẵn sàng để Ngài có thể thực hiện những mục đích của Ngài trong và qua họ. Điều mà Áp-ra-ham và Sa-ra không nhận ra là Đức Chúa Trời đang chờ đợi để họ “tê liệt hoàn toàn” hầu cho chỉ một mình Đức Chúa Trời sẽ nhận quyền thế và vinh hiển.
Thật tốt để chia sẻ những mối quan tâm của bạn với Chúa, thậm chí dù điều bạn muốn nói dường như chứng tỏ sự vô tín hoặc sự thiếu kiên nhẫn trong lòng bạn. Đức Chúa Trời không làm ngơ đối với những vấn đề của bạn hoặc không quan tâm về những cảm xúc của bạn. Ngài đã không quở trách Áp-ra-ham. Ngược lại, Ngài cho ông những sự bảo đảm ông cần. “Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em” (1Phi-e-rơ 5:7).
Nhìn xem (Sáng Thế Ký 15:4-5).Đức Chúa Trời cho biết rõ ràng chỉ một mình Áp-ra-ham sẽ là cha của người kế tự trong tương lai. Quyền kế tự tùy thuộc vào quyền làm con (Rô-ma 8:14-17). Sau đó Đức Chúa Trời bảo đảm với Áp-ra-ham một cách kịch tính rằng người này sẽ là tổ phụ của nhiều con cháu đến nỗi không ai có thể đếm được. Thậm chí khi đời sống tăm tối, bạn vẫn có thể thấy những ngôi sao. Ai đó đã nói chí lý: “Khi quan điểm ảm đạm, hãy cố gắng nhìn lên”. Áp-ra-ham đã nhìn quanh tìm cách giải quyết vấn đề của ông, nhưng cách giải quyết nằm trong hành động nhìn lên.
Có khoảng 30. 000 ngôi sao được liệt kê trong bảng mục lục “General Catalog” được các nhà thiên văn học sử dụng, nhưng người ta ước tính có 100 tỉ ngôi sao nữa! Đức Chúa Trời không nói rằng Áp-ra-ham sẽ có nhiều con cháu số lượng như vậy, nhưng Ngài nói rằng giống như những ngôi sao, sẽ có quá nhiều đến nỗi không thể đếm được. Dù Áp-ra-ham nhìn xuống bụi đất (Sáng Thế Ký 13:14)hay nhìn lên những ngôi sao (Sáng Thế Ký 15:5), ông sẽ nhớ lại lời hứa của Đức Chúa Trời và có sự tin quyết. Lời hứa này đã được lặp lại cho Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 22:17) và được tái xác nhận với Y-sác (Sáng Thế Ký 26:4).
Tin (Sáng Thế Ký 15:6). Những lời hứa không gây ích lợi gì cho chúng ta trừ khi chúng ta tin và hành động dựa trên chúng. Áp-ra-ham đã tin cậy lời hứa của Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 12:1-3) và chứng minh điều đó bằng cách rời quê hương và đi đến Ca-na-an (Hê-bơ-rơ 11:8). Nhưng Sáng Thế Ký 15:6 là sự đề cập đầu tiên trong Kinh Thánh về đức tin của Áp-ra-ham. Đó là Giăng 3:16 của Cựu Ước, và vì lý do này, những tác giả Tân Ước sử dụng nó để minh họa sự cứu rỗi bởi đức tin.
Chỉ có năm từ trong bản gốc (nguyên bản hy Bá lai) ở Sáng Thế Ký 15:6, nhưng chúng chứa đựng ý nghĩa phong phú biết bao. Câu này được trích dẫn ba lần trong Tân Ước. Ga-la-ti 3:6 Rô-ma 4:3 Gia-cơ 2:23. Ba từ chính là: “tin”, “kể là”và “công bình”.
Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, theo nghĩa đen là “Áp-ra-ham đã nói: Lạy Đức Chúa Trời, A-men!”. Từ Hê-bơ-rơ được dịch là “tin” nghĩa là “dựa toàn bộ sức nặng của bạn lên”. Áp-ra-ham nương dựa hoàn toàn nơi lời hứa với Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời của lời hứa. Chúng ta không được cứu bởi tạo lời hứa với Đức Chúa Trời, nhưng bởi tin lời hứa của Đức Chúa Trời. Trong Phúc Âm Giăng, được viết để cho con người biết làm thế nào để được cứu (Giăng 20:31), từ “tin” được sử dụng gần 100 lần. Sự cứu rỗi là món quà ân điển của Đức Chúa Trời, và nó được tiếp nhận bằng đức tin (Ê-phê-sô 2:8-9).
Nhu cầu lớn nhất của Áp-ra-ham là gì? Sự công bình. Đây là nhu cầu lớn nhất của con người trên thế giới chúng ta ngày nay, vì “mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô-ma 3:29). “Chẳng có một người công bình nào hết, dẫu một người cũng không” (Rô-ma 3:23). “Ngoan đạo”thì chưa đủ, Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta có sự công bình trọn vẹn, nếu không Ngài sẽ không để chúng ta bước vào Thiên Đàng.
Áp-ra-ham đã tiếp nhận sự công bình này như thế nào? Ông tin Chúa, và sự công bình được kể cho ông. “kể cho” nghĩa là “đặt vào tài khoản của ai”. Trên thập tự giá, tội lỗi của chúng ta được đặt vào tài khoản của Chúa Giê-xu “bị kể vào hàng kẻ dữ” (Ê-sai 53:12) khi Ngài chịu hình phạt lẽ ra thuộc về chúng ta (Ê-sai 53:6). Khi bạn tin Ngài, sự công bình của Ngài được đặt vào tài khoản của bạn (2Cô-rinh-tô 5:21) và bạn được công bình và được tha thứ trước mặt một Đức Chúa Trời thánh khiết.
Áp-ra-ham chứng tỏ đức tin của ông bởi những việc làm của ông khi ông dâng Y-sác trên bàn thờ (Gia-cơ 2:14-24). Áp-ra-ham được cứu không phải bởi vâng lời Đức Chúa Trời hay thậm chí hứa vâng lời Đức Chúa Trời; nhưng sự vâng lời của ông được chứng minh bởi đức tin của ông. Tội nhân được cứu không phải bởi đức tin cộng với việc làm, nhưng bởi một đức tin hành động.
Hãy dành thời gian đọc Ga-la-ti 3:1-29 Rô-ma 4:1-25 Gia-2:1-26.Và bạn sẽ thấy Áp-ra-ham minh họa sự cứu rỗi bởi đức tin ra sao. Trong Ga-la-ti 3:1-29 Phao-lô tập trung vào “tin”. Trong Rô-ma 4:1-25 ông đề cập “kể là” và trong Gia-cơ 2:1-26 Gia-cơ giải thích “sự công bình”. Cần có ba chương Tân Ước để bày tỏ một câu!
Sự trả lời cho nỗi sợ hãi của Áp-ra-ham là sự hiện diện của Đức Chúa Trời: TA LÀ. Sự trả lời cho mối quan tâm của Áp-ra-ham về người thừa kế là lời hứa của Đức Chúa Trời: TA SẼ. Đức Chúa Trời sẽ trả lời mối quan tâm thứ ba của Áp-ra-ham ra sao?
3. Xứ củaÁp-ra-ham (Sáng Thế Ký 15:7-21)
Lời xác nhận (Sáng Thế Ký 15:7). Đức Chúa Trời đã cho Áp-ra-ham biết rằng Ngài sẽ ban xứ Ca-na-an cho ông cùng con cháu ông (Sáng Thế Ký 12:7 Sáng Thế Ký 13:15, 17), và giờ đây Ngài tái xác nhận lời hứa đó. Xứ là một phần quan trọng của giao ước, vì chính trong đất Y-sơ-ra-ên mà vở kịch thiên thượng của “lịch sử về sự cứu rỗi” đã được diễn ra. Xứ Y-sơ-ra-ên cũng sẽ là sân khấu cho cảnh cuối cùng của vở kịch khi Đấng Mê-si-a tái lâm để cai trị đất.
Trải qua các thế kỷ, Y-sơ-ra-ên là một dân tộc không có xứ, và dường như những lời hứa giao ước sẽ không được thực hiện. Vào năm 1932, nhà bình luận người Anh G. Campbell Morgan đã viết: “Giờ đây tôi hoàn toàn tin rằng sự dạy dỗ của toàn bộ Kinh Thánh đó là không có tương lai cho Y-sơ-ra-ên với tư cách một dân trên đất” (This was his faith - Đây là đức tin của ông, Truyền Đạo 290). Rồi đến ngày 14/5/1948 và là sự tái sinh của dân tộc Y-sơ-ra-ên! Như Đức Chúa Trời đã giữ lời hứa của Ngài với Áp-ra-ham và ban ĐấngMê-si-a, Ngài cũng sẽ giữ lời hứa của Ngài và phục hồi xứ cho dân sự Ngài.
Sự bảo đảm (Sáng Thế Ký 15:8-12). Câu hỏi của Áp-ra-ham không phải là một dấu hiệu của sự vô tín, nhưng là một đề nghị về một bằng chứng của sự bảo đảm. Ông tin rằng Đức Chúa Trời sẽ ban cho ông đứa con trai đã hứa, nhưng đất đang ở trong tay của mười dân tộc ngoại đạo (Sáng Thế Ký 15:19-21). Áp-ra-ham làm chủ đất là một việc, nhưng con cháu ông làm sao sẽ chiếm hữu đất để họ có thể vui hưởng?
Điều được mô tả trong Sáng Thế Ký 15:9-17 vào thời đó được biết như “cắt một giao ước”. Nghi lễ long trọng này đòi hỏi sự chết của thú vật và sự ràng buộc con người với một lời hứa. Những người lập giao ước sẽ giết nhiều thú vật và mổ xác, đặt nửa con mỗi bên đối nhau trên đất. Rồi các bên sẽ bước đi giữa những phần vật sinh tế trong sự tuyên bố rằng, nếu họ không giữ lời của mình, họ đáng lãnh cùng số phận như những thú vật (Giê-rê-mi 34:18-19).
Nhưng kinh nghiệm của Áp-ra-ham lại khác. Ông giết các thú vật, đặt chúng trên đất, và trải qua thời gian còn lại trong ngày để đuổi những con chim ăn mồi bị hấp dẫn bởi thịt và huyết. Khi mặt trời lặn, Áp-ra-ham rơi vào một cơn ngủ mê, và rồi Đức Chúa Trời hiện ra với ông và phán với ông. Nhưng chỉ một mình Đức Chúa Trời đi qua giữa những phần vật sinh tế! (Sáng Thế Ký 15:17). Chính Đức Chúa Trời đã lập những lời hứa với Áp-ra-ham, không phải Áp-ra-ham đã lập những lời hứa với Đức Chúa Trời. Không có những điều kiện thêm vào; giao ước của ân điển đến từ tấm lòng rời rộng của Đức Chúa Trời.
Sự biết trước (Sáng Thế Ký 15:13-21). Từ “Cơn kinh hãi về sự tối tăm lớn” Áp-ra-ham nghe những điều khoản của giao ước Đức Chúa Trời và khám phá kế hoạch của Đức Chúa Trời cho dân tộc (Sáng Thế Ký 15:13-15, 16, 17), bản thân ông (Sáng Thế Ký 15:15) và cho đất đai (Sáng Thế Ký 15:18-21).
Dân tộc (Sáng Thế Ký 15:13-14, 16-17). Gia-cốp và gia đình ông đã đến Ai Cập để được Giô-sép bảo vệ. Và ở đó họ trở nên một dân hùng mạnh (Sáng Thế Ký 46:1-34 Xuất Ê-díp-tô 1:1-22).
Đến Ai Cập như những vị khách được tôn trọng, dân Do Thái cuối cùng trở thành một sự đe doạ, vì vậy Pha-ra-ôn đã biến họ thành nô lệ và làm họ khổ sở nhiều (Xuất Ê-díp-tô 1:11-12). Có lẽ khói (Sáng Thế Ký 15:17) là một tượng trưng về hoạn nạn của dân tộc ở Ai Cập (Phục truyền 4:20). Sự tàn ác của Pha-ra-ôn đã không thể tiêu diệt dân tộc vì Đức Chúa Trời có những kế hoạch cho tuyểndân của Ngài. Đức Chúa Trời đã xét đoán Ai Cập bằng mười tai họa và sau đó giúp Môi-se có thể lãnh đạo dân sự một cách chiến thắng (Xuất Ê-díp-tô 5:1-15:27).
Những sự kiện và thì giờ của chúng ở trong tay Đức Chúa Trời. Bốn trăm năm ở Sáng Thế Ký 15:13 chỉ về toàn bộ thời gian Y-sơ-ra-ên ở Ai Cập, từ khi Gia-cốp đến cho tới khi rời khỏi Ai Cập. Đó là một con số chẵn, vì Xuất Ê-díp-tô 12:40 đưa ra 430 năm (Công vụ 7:6). Vì sao Đức Chúa Trời chờ quá lâu để giải cứu dân Ngài? Vì Đức Chúa Trời nhẫn nhục với các dân tộc ở Ca-na-an và trì hoãn sự xét đoán, hầu họ có thể có nhiều thời gian hơn để ăn năn (2Phi-e-rơ 3:8-9 Ma-thi-ơ 23:32). Những ai lên án Y-sơ-ra-ên (và Đức Chúa Trời) về cách dân Ca-na-an bị đối xử, dường như đều quên rằng Đức Chúa Trời đã cho họ bao thế kỷ để ăn năn về sự gian ác của họ.
Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 15:15) “Tuổi già tốt lành” của Áp-ra-ham là 175 năm (Sáng Thế Ký 25:7), nghĩa là ông đã đồng đi với Đức Chúa Trời một thế kỷ (Sáng Thế Ký 12:4). Bất chấp những thất bại thỉnh thoảng của Áp-ra-ham ông đã thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời và đem phước hạnh đến cho toàn thế giới. Lời hứa này từ Đức Chúa Trời chắc đã cho Áp-ra-ham và Sa-ra sự yên ủi lớn suốt những lúc khó khăn, cũng như những lời hứa ở Phi-líp 1:6 và Ê-phê-sô 2:10 yên ủi dân sự Đức Chúa Trời ngày nay.
Đất (Sáng Thế Ký 15:18-21). Vào đầu cuộc hành hương của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời đã phán với ông: “Ta sẽ chỉ cho ngươi đất” (Sáng Thế Ký 12:1). Sau đó Ngài phán:“Ta sẽ ban nó cho ngươi” (Sáng Thế Ký 13:15-17). Nhưng giờ đây Lời Ngài là “Ta đã ban đất này cho con cháu ngươi” (Sáng Thế Ký 15:18 NASB). Giao ước của Đức Chúa trời trở thành một vấn đề chắc chắn: đất thuộc về con cháu Áp-ra-ham qua Y-sác.
Sa-lô-môn đã thực hiện quyền cai trị trên một miền rộng lớn (1Các vua 4:21 Thi Thiên 72:8), nhưng Y-sơ-ra-ên đã không chiếm hữu toàn đất đó. Các vua chỉ nhận biết quyền tối cao của Sa-lô-môn và nạp cống vật cho ông. Khi Chúa Giê-xu Christ cai trị từ ngôi Đa-vít (Ma-thi-ơ 19:28 Lu-ca 1:32), đất Y-sơ-ra-ên sẽ đạt đến kích thước đầy đủ do Đức Chúa Trời đã hứa.
Giao ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham bền vững dù Y-sơ-ra-ên tin điều gì. Giao ước này vô điều kiện; sự thực hiện của nó không tuỳ thuộc vào đức tin hay sự trung tín của con người. Trong bản chất tương tự, giao ước mới do Chúa Giê-xu Christ thiết lập là đáng tin cậy, dù con người chấp nhận hay không. Những ai đặt đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ đều bước vào giao ước đó và tiếp nhận sự cứu rỗi đời đời (Hê-bơ-rơ 5:9 Hê-bơ-rơ 9:12) một di sản đời dời (Hê-bơ-rơ 9:15) và sự vinh hiển đời đời (1Phi-e-rơ 5:10).
Khi Áp-ra-ham quan tâm về chính mình, Đức Chúa Trời bảo đảm với ông bằng cách phán “TA LÀ!” Khi ông quan tâm về người thừa kế, ông nghe Đức Chúa Trời phán “TA SẼ!”. Mối quan tâm của ông về đất được đáp ứng bởi Lời Đức Chúa Trời “Ta đã ban!”
Trong Chúa Giê-xu Christ, Đức Chúa Trời ban những lời bảo đảm tương tự như thế cho dân sự Ngài hôm nay.
Áp-ra-ham đã tin Đức Chúa Trời.
Bạn có tin chăng?
(Để có sự nghiên cứu chi tiết hơn về Ga-la-ti 3:1-29, hãy xem “Be Free” (Hãy tự do). Rô-ma 4:1-25 đươc giải thích trong “Be right” (Hãy công bình”. Chủ đề về đức tin và việc làm trong Gia-cơ 2:1-26 được đề cập trong “Be Mature” (Hãy trưởng thành). Những tên sách này được Victor Books xuất bản. )
16. HÃY COI CHỪNG NHỮNG KHÚC QUANH! (Sáng Thế Ký 16:1-16)
Trở về thập niên 60, vợ tôi và tôi đã hưởng một kỳ nghỉ ngắn ở dải đồi thấp xinh đẹp của rặng núi Appalachian. Khi chúng tôi bắt đầu lái xe về nhà, bà ấy nói:“Chúng ta hãy đi đường phía bên này. Nó có vẻ thú vị”
Thú vị! Nó đã trở thành một trong những con đường nông thôn tồi tệ nhất mà chúng tôi từng gặp phải, kể cả một số con đường chúng tôi đã thấy trên những khu vực công tác ở hải ngoại. Không có ổ gà nào; chúng đều là những cái hố. Và trong khi xe của tôi văng bụi lên, sự thiếu kiên nhẫn của tôi làm tăng sự tức giận của tôi, khi chúng tôi cẩn thận cua một đường vòng, chúng tôi kết luận rằng ít người đã đi con đường này. Vì ở đó trước mặt chúng tôi là hai con rùa, nhàn nhã đi dạo ở một trong hai vết đường mòn giữ lấy bạn trên đường.
Khi chúng ta cuối cùng đạt đến nền văn minh và một con đường lát, tôi nghĩ đến nhận định mà Vance Havner thường nói: “Khúc quanh luôn tệ hại hơn đường chính”.
Sáng Thế Ký 16:1-16 ghi lại một khúc quanh đau đớn mà Áp-ra-ham và Sa-ra đã thực hiện trong cuộc hành hương của họ, một khúc quanh đã đem đến xung đột không những trong gia đình họ mà còn trên thế giới. Điều mà các nhà báo gọi là “cuộc xung đột Ả Rập - Y-sơ-ra-ên” đã khởi đầu ngay ở đây.
Nhưng ý nghĩa câu chuyện này vượt lên trên lịch sử với những hậu quả ngày nay. Đối với dân sự Đức Chúa Trời, đó là một bài học tốt về việc bước đi bởi đức tin và chờ đợi Đức Chúa Trời thực hiện những lời hứa của Ngài theo cách của Ngài và trong thì giờ của Ngài. Khi bạn nghiên cứu những giai đoạn trong từng trải của Áp-ra-ham và Sa-ra, bạn sẽ thấy nguy hiểm ra sao khi cậy nơi sự khôn ngoan của riêng mình.
1. Chờ đợi (Sáng Thế Ký 16:1a)
Áp-ra-ham giờ đây đã 85 tuổi. Ông đã bước đi với Đức Chúa Trời được 10 năm và học một số bài học quý giá về đức tin. Đức Chúa Trời đã hứa ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra một đứa con nhưng không cho họ biết khi nào đứa trẻ sẽ ra đời. Đó là một thời gian chờ đợi, và đa số mọi người không thích chờ đợi. Nhưng chính bởi “đức tin và lòng nhịn nhục mà (chúng ta) được hưởng lời hứa” (Hê-bơ-rơ 6:12).
Đức Chúa Trời có thời gian biểu hoàn hảo cho tất cả mọi điều Ngài muốn làm. Xét cho cùng, sự kiện này không phải chỉ là sự ra đời của thêm một em bé. Đó là phần kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời cho cả thế giới. Tuy nhiên, khi Sa-ra chờ đợi điều gì đó xảy ra, bà trở nên thiếu kiên nhẫn.
Vì sao Đức Chúa Trời trì hoãn quá lâu? Ngài muốn Áp-ra-ham và Sa-ra “tê liệt hoàn toàn” về mặt thể chất (Hê-bơ-rơ 11:12) để chỉ một mình Đức Chúa Trời sẽ được vinh hiển. Ở tuổi 85, Áp-ra-ham vẫn tráng kiện đủ để sinh một đứa con cho A-ga; Vì vậy thời gian cho đứa trẻ của phép lạ vẫn chưa đến. Bất cứ điều gì được làm thật sự bởi đức tin thì đều được làm vì vinh hiển của Đức Chúa Trời (Rô-ma 4:20) chớ không vì sự ca tụng của loài người.
Một ý chí chờ đợi Chúa là bằng chứng khác cho thấy bạn đang bước đi bằng đức tin. “Ai tin sẽ chẳng gấp rút” (Ê-sai 28:16). Phao-lô đã trích dẫn câu này trong Rô-ma 10:1 và mở rộng ý nghĩa của nó: “kẻ nào tin Ngài sẽ chẳng bị hổ thẹn” (cùng một Đức Chúa Trời đã thần cảm Ê-sai và cả Phao-lô, và Ngài có quyền tạo những thay đổi này). Bất cứ khi nào chúng ta thôi tin cậy Đức Chúa Trời, chúng ta bắt đầu “gấp rút” trong hướng sai lầm và đi đến chỗ hổ thẹn.
Một bằng chứng thứ ba của đức tin đó là bạn đang hành động theo thẩm quyền của Lời Đức Chúa Trời. “Như vâỵ, đức tin đến bởi sự nghe, và sự nghe đến bởi Lời Đức Chúa Trời” (Rô-ma 10:17). Bạn có thể hành động bởi đức tin, và biết rằng Đức Chúa Trời sẽ chúc phước nếu bạn vâng theo điều Đức Chúa Trời phán trong Lời Ngài. Hê-bơ-rơ 11:1-40 ghi lại những hành động mạnh mẽ của những người nam người nữ bình thường dám tin những lời hứa của Đức Chúa Trời và vâng theo những điều răn của Ngài.
Cuối cùng, bất cứ khi nào bạn hành động bằng đức tin, Đức Chúa Trời sẽ ban sự vui mừng và bình an trong đời sống bạn. “Xin Đức Chúa Trời của sự trông cậy, làm cho anh em đầy dẫy mọi điều vui vẻ và mọi điều bình an trong đức tin” (Rô-ma 15:13) Xung đột có thể bao vây bạn, nhưng bạn sẽ có sự bình an và vui mừng của Đức Chúa Trời trong bạn.
Vậy, đây là những chứng cớ của đức tin thật theo tinh thần Kinh Thánh: 1. bạn sẵn sàng chờ đợi; 2. bạn chỉ quan tâm về vinh hiển của Đức Chúa Trời; 3. bạn vâng theo Lời Đức Chúa Trời, và 4. bạn có sự vui mừng và bình an của Đức Chúa Trời ở trong lòng. Trong khi Áp-ra-ham và Sa-ra chờ đợi, Đức Chúa Trời gia tăng đức tin với sự kiên nhẫn của họ và xây dựng tính cách (Gia-cơ 1:1-4). Rồi điều gì đó đã xảy ra đặt Áp-ra-ham và Sa-ra trên một khúc quanh đau đớn.
2. Vạch kế hoạch (Sáng Thế Ký 16:1-4a)
Sa-ra biết rằng bà không có khả năng sinh con nhưng chồng bà vẫn có khả năng sinh con.Đức Chúa Trời đã gọi Áp-ra-ham một cách rõ ràng là cha của người kế nghiệp được hứa ban, nhưng Ngài chưa xác định người mẹ. Theo lô-gic, đó sẽ là vợ của Áp-ra-ham, nhưng có lẽ Đức Chúa Trời có những kế hoạch khác. Sa-ra đang “suy đoán” kế hoạch của Đức Chúa Trời, và đây là một việc làm nguy hiểm. Hãy nhớ, đức tin thật đặt cơ sở trên Lời Đức Chúa Trời (Rô-ma 10:17) chớ không dựa trên sự khôn ngoan của loài người (Châm Ngôn 3:5-6), vì “đức tin là sống mà không vạch kế hoạch”. Sa-ra đã nói “Có lẽ”. Bà không nói “Chúa đã phán vậy!” Đức Chúa Trời đã bảo Áp-ra-ham “phải biết chắc” (Sáng Thế Ký 15:13) nhưng Sa-ra không có sự xác tín như vậy để bà đặt cơ sở cho những hành động của mình trên đó.
Hơn nữa, Sa-ra không quan tâm về vinh hiển của Đức Chúa Trời; mục đích duy nhất của bà là “hầu cho tôi có thể có con nhờ nó” (Sáng Thế Ký 16:2).Có lẽ có một ngụ ý về sự thất vọng đối với Đức Chúa Trời và thậm chí là sự đổ lỗi cho Đức Chúa Trời khi bà nói: “Đức Giê-hô-va đã làm cho tôi son sẻ” (Sáng Thế Ký 16:2).Người ta thường nói rằng những sự trì hoãn của Đức Chúa Trời không phải là những sự từ chối của Đức Chúa Trời, nhưng Sa-tan thì thầm với chúng ta” Đức Chúa Trời đang từ chối ngươi! Nếu Ngài yêu ngươi, mọi việc sẽ khác! Hãy trách cứ Ngài!” (Sáng Thế Ký 3:1-6).
Việc Áp-ra-ham lấy A-ga làm vợ lẽ hoàn toàn hợp pháp theo luật lệ hôn nhân thời đó. Những năm sau, Gia-cốp sẽ cưới những người hầu của các bà vợ ông, Bi-la và Xinh-ba, mỗi người cho ông hai con trai. Hơn nữa, kế hoạch dường như thành công, vì A-ga đã thụ thai. Xét cho cùng, có lẽ Sa-ra đã đúng.
Nhưng không phải mọi việc hợp pháp hay có vẻ thành công đều được tán thành bởi ý muốn của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời chưa bao giờ chấp nhận A-ga là vợ của Áp-ra-ham; Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đã gọi nàng là “đòi của Sa-ra” (Sáng Thế Ký 16:8). Sau đó nàng bị gọi là “con đòi này với con nó” (Sáng Thế Ký 21:10), chớ không phải “vợ và con của Áp-ra-ham”. Tại sao? Vì “điều chi không bởi đức tin là tội lỗi” (Rô-ma 14:23). Đức Chúa Trời khước từ toàn bộ công việc, vì Ngài đã nghĩ đến điều gì đó tốt hơn cho Áp-ra-ham và Sa-ra.
Khi bạn nhìn lại bốn chưng cớ của đức tin theo tinh thần Kinh Thánh đã được giải thích ở trên, bạn có thể thấy rằng Áp-ra-ham và Sa-ra đã không vượt qua cuộc thử nghiệm. Họ không sẵn sàng chờ đợi Chúa nhưng lao về phía trước với những kế hoạch riêng của họ. Họ hành động chỉ để làm thỏa mãn chính mình chớ không phải để làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Họ không vâng theo Lời Chúa, và điều họ đã làm chắc chắn không đem lại niềm vui và sự bình an cho lòng họ hoặc gia đình họ.
Nhà tiểu thuyết người Ê-cốt George Mac Donald đã đúng khi ông nói: “Trong bất cứ điều gì con người làm mà không có Đức Chúa Trời, con người phải thất bại thảm hại, hoặc thành công một cách thảm hại hơn”. Điều này dẫn chúng ta đến giai đoạn thứ ba trong kinh nghiệm “khúc quanh” của Áp-ra-ham và Sa-ra.
3. Tranh chiến (Sáng Thế Ký 16:4b-6)
Khi bạn đi theo sự khôn ngoan của thế gian, bạn sẽ đi đến chỗ tranh chiến giống như thế gian (Gia-cơ 3:13-18). Trong mọi sự tranh chiến, những tranh chiến gia đình là đau đớn nhất và khó giải quyết nhất. Nếu A-ga vẫn có thái độ của một đầy tớ, mọi việc có thể đã khác; nhưng nàng trở nên kiêu ngạo, và điều này chọc tức bà chủ của nàng (Châm Ngôn 30:21-23).
Phao-lô đã hỏi: “Sau khi đã khởi sự nhờ Đức Thánh Linh, nay sao lại cậy xác thịt mà làm cho trọn?” (Ga-la-ti 3:3), và bạn thấy điều này được minh họa trong gia đình của Áp-ra-ham. Ông và Sa-ra đã khởi đầu trong Thánh Linh khi họ đặt đức tin nơi Chúa, nhưng giờ đây họ quay sang xác thịt để được sự giúp đỡ, và một số việc làm của xác thịt đang bắt đầu xuất hiện (Ga-la-ti 5:19-21).Áp-ra-ham, Sa-ra và A-ga tranh chiến nhau vì họ đã tranh chiến với Chúa, và họ tranh chiến với Chúa vì họ đã có những ham muốn ích kỷ tranh chiến trong lòng họ (Gia-cơ 4:1-10).
Việc đầu tiên họ phải làm là xây một bàn thờ, thờ phượng Chúa và cho Ngài biết những vấn đề của họ. Họ phải xưng nhận tội lỗi mình và tiếp nhận sự tha thứ nhân từ của Ngài. Một khi bạn thôi tranh chiến với Đức Chúa Trời và với chính mình, bạn sẽ có một thời gian dễ chịu hơn để không tranh chiến với người khác. Bước kế tiếp hướng đến sự hòa thuận với người khác là hòa thuận với Đức Chúa Trời.
Tuy nhiên, thay vì thành thật đối diện với tội lỗi mình, mỗi người trong cuộc đời chọn một cách cư xử khác; và điều này chỉ làm cho mọi sự trở nên tồi tệ hơn. Giải pháp của Sa-ra là trách cứ chồng bà và ngược đãi đầy tớ của bà khi bà trút cơn giận của mình. Bà dường như quên rằng bà là người trước tiên đã đưa ra đề nghị về hôn nhân. Giải pháp của Áp-ra-ham là nhượng bộ vợ ông và từ bỏ cương vị lãnh đạo thuộc linh trong gia đình. Lẽ ra ông phải có lòng thương xót đối với một người đầy tớ cô thế, là người đang có thai, nhưng ông cho phép Sa-ra ngược đãi nàng. Đáng ra ông phải gọi họ đến trước bàn thờ, nhưng ông đã không làm.
Giải pháp của A-ga là chạy trốn vấn đề, một chiến thuật chúng ta đã biết từ A-đam và Ê-va (Sáng Thế Ký 3:8). Tuy nhiên, bạn sớm khám phá rằng bạn không thể giải quyết những vấn đề bằng cách chạy trốn. Áp-ra-ham đã học điều đó khi ông chạy đến Ai Cập (Sáng Thế Ký 12:10). Có sự bình an trong gia đình một thời gian ngắn nhưng đó không phải là “sự bình an của Đức Chúa Trời”. Đó chỉ là một sự hòa hoãn tạm thời, dễ tan vỡ mà chẳng bao lâu sẽ thất bại.
4. Đầu phục (Sáng Thế Ký 16:7-16)
Giăng 4:10 giải thích lý do Cơ Đốc nhân tranh chiến và cách Cơ Đốc nhân có thể ở trong sự hòa thuận. Những cuộc chiến giữa vòng chúng ta phát sinh vì chúng ta vâng theo ba kẻ thù của mình thế gian (Gia-cơ 4:4), xác thịt (Gia-cơ 4:1) và ma quỉ (Gia-cơ 4:7). Làm sao chúng ta mong mình hòa thuận với Đức Chúa Trời và với người khác nếu chúng ta đang sống cho kẻ thù! “Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Vậy hãy phục Đức Chúa Trời” (Gia-cơ 4:6-7).
A-ga đã phải đầu phục Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 16:7-14).Đây là sự xuất hiện đầu tiên của thiên sứ của Đức Giê-hô-va trong Kinh Thánh, Đấng thường được nhận biết là Chúa Giê-xu Christ của chúng ta. Trong Sáng Thế Ký 16:10 thiên sứ đã hứa làm điều mà chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể làm và trong Sáng Thế Ký 16:13 A-ga gọi thiên sứ này là “Đức Chúa Trời”. Những cuộc thăm viếng trước kỳ hiện thân này của Chúa Giê-xu Christ trên đất là để đáp ứng những nhu cầu đặc biệt và để thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt. Việc Con Đức Chúa Trời đã mặc lấy một thân xác tạm thời, lìa Thiên Đàng, và giáng xuống để giúp đỡ một đầy tớ gáibị ruồng bỏ, chắc chắn bày tỏ ân điển và tình yêu của Ngài. Những tôi tớ của Ngài là Áp-ra-ham và Sa-ra đã phạm tội với Chúa và với A-ga, nhưng Chúa không từ bỏ họ.
Thiên sứ gọi nàng là “đòi của Sa-ra”, gợi ý rằng Đức Chúa Trời đã không chấp nhận cuộc hôn nhân của nàng với Áp-ra-ham. Rõ ràng A-ga đang trên đường trở về Ai Cập thì nàng gặp thiên sứ, nhưng Đức Chúa Trời bảo nàng trở lại với trại của Áp-ra-ham và đầu phục bà chủ của nàng. Điều đó sẽ cần có một đức tin lớn, vì Sa-ra đã ngược đãi A-ga trước đó và có thể làm điều ấy lần nữa.
Sau đó Đức Chúa Trời cho nàng biết rằng nàng mang thai một con trai mà nàng phải đặt tên là Ích-ma-ên (“Đức Chúa Trời nghe”). Mặc dù sẽ không phải là người thừa kế của Áp-ra-ham về những phước hạnh của giao ước, Ích-ma-ên sẽ vẫn vui hưởng những phước hạnh từ Đức Chúa Trời vì ông là con trai của Áp-ra-ham. Đức Chúa Trời đã hứa làm cho con cháu của Ích-ma-ên thêm nhiều và khiến họ trở nên những dân tộc lớn (Sáng Thế Ký 21:18 Sáng Thế Ký 25:12-18), và Ngài đã làm điều đó, vì Ích-ma-ên là người sáng lập các dân Ả Rập.
Ích-ma-ên sẽ là “một con lừa rừng” (Sáng Thế Ký 16:12), không phải là một mô tả quá tâng bốc. Nó đồng nhất hóa ông với đồng vắng nơi ông sống bằng kỹ năng của mình với tư cách một người bắn cung (Sáng Thế Ký 21:20-21 Giăng 24:5). Nó cũng bày tỏ bản tính độc lập và hay gây gỗ của ông.
Ông sẽ là một người bị thù ghét, sống “trong sự thù địch với mọi anh em mình” (Sáng Thế Ký 16:12 NIV). Mặc dù chúng ta không nên áp dụng những điểm này cho mọi con cháu của Ích-ma-ên, nhưng sự thù địch hằng bao thế kỷ giữa dân Do Thái và dân Ả-rập quá nổi tiếng đến độ không thể bị bỏ qua. Các dân tộc Ả-rập là những dân độc lập, cư ngụ trong những xứ sa mạc và chống lại sự xâm lấn của các dân tộc khác, đặc biệt là Ysơ-ra-ên và các đồng minh của họ.
Kinh nghiệm ở đồng vắng của A-ga đã đem nàng mặt đối mặt với Đức Chúa Trời và dạy nàng một số chân lý quan trọng về Ngài. Nàng biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống Đấng nhìn thấy chúng ta và nghe những lời than khóc của chúng ta khi chúng ta bị tổn thương. Tên của cái giếng nước nghĩa là “Giếng của Đấng hằng sống và đoái xem tôi”. Ngài là một Đức Chúa Trời riêng tư, quan tâm về những người bị hành hạ và những thai nhi. Ngài biết tương lai và chăm sóc những ai sẽ tin cậy Ngài.
A-ga đã trở về và đầu phục Sa-ra. Chắc chắn nàng đã xin lỗi về việc kiêu ngạo, xem thường bà chủ, và chạy trốn. Nàng tin cậy Đức Chúa Trời bảo vệ nàng với con trai nàng và chăm sóc họ trong những năm sắp đến. Hãy đầu phục Đức Chúa Trời và tin cậy Ngài thực hiện những việc vì ích lợi của bạn và vì vinh hiển của Ngài.
Sa-ra đã phải đầu phục Đức Chúa Trời. Sa-ra cảm thấy ra sao khi A-ga trở về trại và thuật lại rằng Đức Chúa Trời đã nói chuyện với nàng? Đức Chúa Trời đã dành thời gian cho một đầy tớ nghèo hèn ư?Đức Chúa Trời quan tâm về đứa con của một đầy tớ gái sao? Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã chăm sóc cho một người Ai Cập chăng? Vâng, vì đứa con của người Ai Cập đó có Áp-ra-ham là cha, và Đức Chúa Trời có một giao ước với Áp-ra-ham. Sự ghi chép không cho chúng ta biết Sa-ra đã đáp ứng ra sao, nhưng dường như bà đã chấp nhận A-ga và lời tường thuật của nàng, rồi đưa nàng trở lại vị trí đầy tớ của bà. Sa-ra đã không ngược đãi nàng nữa, vì xét cho cùng, Đức Chúa Trời đang quan sát!
Áp-ra-ham đã phải đầu phục Đức Chúa Trời. Trong toàn bộ tình tiết này, Áp-ra-ham đóng một vai trò khá tiêu cực. Ông đã để Sa-ra thuyết phục ông cưới A-ga, rồi ông đã cho phép Sa-ra ngược đãi A-ga và đuổi nàng ra khỏi trại. Rõ ràng, Áp-ra-ham đã không giúp đỡ A-ga bằng bất cứ cách nào. Sau đó, ông đã thu xếp việc ấy (Sáng Thế Ký 21:9). Nhưngkhi con trai ông ra đời, Áp-ra-ham nhìn nhận nó và đặt cho nó cái tên Đức Chúa Trời đã chỉ định.
Cả Áp-ra-ham và Sa-ra đã phải học cách sống với những sai lầm của mình. Chắc chắn Áp-ra-ham đã vui mừng nhìn xem đứa con trai lớn lên, và lòng người già đầy tình yêu dành cho nó (Sáng Thế Ký 17:18). Nhưng Áp-ra-ham biết rằng Ích-ma-ên sẽ không phải là một phần mãi mãi trong gia đình giao ước. Giải pháp của Đức Chúa Trời đối với “vấn đề Ích-ma-ên” không phải là trách mắng Áp-ra-ham, Sa-ra hay A-ga, nhưng là ban đứa con khác trong gia đình Y-sác. Ích-ma-ên đã không gây bất cứ phiền phức nào cho Áp-ra-ham và Sa-ra cho đến khi Y-sác lớn lên; khi ấy cậu bắt đầu tạo ra những vấn đề (Sáng Thế Ký 21:1-11).Như chúng ta sẽ thấy trong những chương sau, tất cả những điều này có ý nghĩa thần học sâu sắc đối với tín hữu Cơ Đốc ngày nay.
Khi bạn nhìn lại chương này, bạn sẽ thấy rằng nhiều bản văn chính từ sách Rô-ma được minh họa bởi điều được ghi chép ở đây.
“Điều chi không bởi đức tin là tội lỗi” (Rô-ma 14:23). Hãy biết chắc rằng những kế hoạch và hành động của bạn có thể vượt qua bốn “thử nghiệm của đức tin” được phác thảo ở trên. Con người có thể đồng ý với bạn, và Luật pháp có thể bảo vệ bạn, nhưng nếu Đức Chúa Trời không chúc phước cho bạn, đừng làm điều đó! Hãy để Đức Chúa Trời thực hiện ý muốn của Ngài theo cách của Ngài và trong giờ của Ngài. Sa-ra đã tìm cách chạy trước Đức Chúa Trời, và bà đã tạo ra những vấn đề mà vẫn ở cùng chúng ta hôm nay.
“Những kẻ nhận ân điển và sự ban cho của sự công bình cách dư dật sẽ cai trị trong sự sống” (Rô-ma 5:17). Trong Sáng Thế Ký 15:1-21, ân điển để cai trị qua sự công bình vì cớ đức tin của Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 15:6) và Áp-ra-ham đã cai trị trong cuộc sống vì vinh hiển Đức Chúa Trời. Nhưng ông đã từ bỏ ngôi vị trong đoạn 16 và tội lỗi bắt đầu cai trị. Sự vô tín, sự thiếu kiên nhẫn, sự giận dữ, sự kiêu ngạo và sự hờ hững đã nắm quyền trong gia đình của Áp-ra-ham và gần như hủy hoại gia đình. Dân sự Đức Chúa Trời là vua và thầy tế lễ (Khải Huyền 1:6), những người sẽ “cai trị trong sự sống” bằng cách đầu phục Chúa Giê-xu Christ (Rô-ma 6:11-14).
“Nhưng nơi nào tội lỗi đã gia thêm, thì ân điển lại càng dư dật hơn nữa” (Sáng Thế Ký 5:20). Điều này không có nghĩa là Đức Chúa Trời đồng ý với tội lỗi hay sự phạm tội đầy dẫy đó là chìa khóa cho ân điển dư dật (Sáng Thế Ký 6:1-7).Đúng hơn, nó có nghĩa là ân điển của Đức Chúa Trời lớn hơn tội lỗi con người và có thể thực hiện điều tốt nhất của Đức Chúa Trời thậm chí khi con người làm điều tồi tệ nhất của mình. Trong ân điển, Đức Chúa Trời nhìn thấy A-ga chạy trốn đến Ai Cập; Ngài đến với nàng và đáp ứng những nhu cầu của nàng. Ngài khiến nàng trở nên mẹ của một dân tộc lớn. Dĩ nhiên, Ngài làm điều đó vì Áp-ra-ham, nhưng giao ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham là một giao ước của ân điển.
Theo quan điểm con người, “khúc quanh” này là một bi kịch đem kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời đến chỗ bế tắc. Tuy nhiên, hãy xem xét quan điểm thiên thượng. Đức Chúa Trời không bao giờ bị bị lối. Khi con người không chịu đặt mình dưới sự cai trị của Ngài, Ngài tể trị, và Ngài luôn thực hiện những mục đích của Ngài.
Sa-tan muốn chúng ta nghĩ rằng “những khúc quanh của sự bất tuân” phải trở nên con đường vĩnh viễn cho phần còn lại của đời sống chúng ta; nhưng đây là một sự giả dối. Giống như Áp-ra-ham và Sa-ra, chúng ta có thể xưng nhận tội lỗi mình, tiếp nhận sự tẩy thanh của Đức Chúa Trời (1Giăng 1:19)và sau đó học cách sống với những sai lầm của mình. Vâng, sẽ có sự đau đớn và hối tiếc, nhưng ân điển của Đức Chúa Trời cuối cùng sẽ đắc thắng.
George Morrison đáng được trích dẫn lẫn nữa: “Đời sống Cơ Đốc đắc thắng là một chuỗi những khởi đầu mới”.
17. CÓ GÌ TRONG MỘT CÁI TÊN? (Sáng Thế Ký 17:1-27)
Ở thời điểm nào đó trong sự học vần của bạn, có thể bạn đã đọc “Romeo và Juliet”của Shakespeare; và bạn khám phá trong cảnh hai câu trích dẫn nổi tiếng đó: “Có gì trong một cái tên? Điều mà ta gọi là một hoa hồng bằng bất cứ từ ngữ nào khác sẽ tỏa hương ngọt ngào như vậy”.
Juliet nói những lời đó khi nàng tự nói với mình trên ban công, không biết rằng Romeo đang lắng nghe ở dưới. Nàng đang suy gẫm về việc nàng thuộc về dòng họ Capullet và chàng thuộc về dòng họ Montagues đối địch, và sự ra đời tình cờ đó đã ngăn cản họ lấy nhau. Hai cái tên đã tạo ra sự khác biệt nào? Dù tên chàng là gì, Romeo vẫn là tình yêu của nàng!
Không kể Shakespeare, nếu bạn hỏi một nhân vật Kinh Thánh câu hỏi: “Có gì trong một cái tên?” Người ấy sẽ đáp “Tất cả! Tên chúng ta rất quan trọng!” Những cái tên có thể ghi lại điều gì đó có ý nghĩa về sự ra đời của con người (Sáng Thế Ký 29:31-30:24) hoặc về kinh nghiệm nào đó làm thay đổi đời sống. Gia-cốp đã được đổi tên là Y-sơ-ra-ên sau một đêm vật lộn với Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 32:24-32), và Si-môn nhận cái tên Phi-e-rơ (đá) khi ông gặp Chúa Giê-xu Christ (Giăng 1:40-42).Những tên được định cho những em bé sắp ra đời thậm chí mang những sứ điệp (Sáng Thế Ký 16:11 Ma-thi-ơ 1:18-25).
Trong chương này, bạn sẽ khám phá bốn tên mới và một tên sẽ luôn cũ vì nó không thể thay đổi được.
1. Đức Chúa Trời toàn năng (Sáng Thế Ký 17:1-2)
Sự mạc khải. Tên Hê-bơ-rơ “El Shaddai” (Shuh-DYE) và đây là lần đầu tiên nó xuất hiện trong Kinh Thánh. “Shaddai” được dịch là “Toàn năng (Almighty) 48 lần trong Cựu Ước. Trong Tân Ước, từ Hy Lạp tương đương được sử dụng trong 2Cô-rinh-tô 6:18 2Cô-rinh-tô 1:8 2Cô-rinh-tô 4:8 2Cô-rinh-tô 11:17 2Cô-rinh-tô 15:3 2Cô-rinh-tô 16:7, 14 2Cô-rinh-tô 19:6, 15 2Cô-rinh-tô 21:22. Nó được dịch là “Toàn năng (Almighty) ngoại trừ trong Khải Huyền 19:6 (“omnipotent).
“El”là danh của Đức Chúa Trời nói về quyền năng, nhưng “Shaddai” nghĩa là gì? Các học giả không đồng ý với nhau. Một số người nói nó đến từ Hê-bơ-rơ có nghĩa “mạnh”, số khác đưa ra một từ có nghĩa là “núi” hoặc “ngực”. Theo ẩn dụ thì núi là một “ngực” nhô lên từ đồng bằng, và chắc chắn nó là một biểu tượng của sức mạnh. Nếu chúng ta kết hợp nhiều tư tưởng này, chúng ta có thể nói rằng “El Shaddai” là danh của “Đức Chúa Trời toàn năng toàn quyền Đấng có thể làm bất cứ việc gì và đáp ứng bất cứ nhu cầu nào”.
Nhưng vì sao Đức Chúa Trời mạc khải danh này cho Áp-ra-ham tại thời điểm này, sau 13 năm yên lặng? Vì Đức Chúa Trời sẽ cho bạn Ngài biết rằng Sa-ra sẽ có một con trai. Chúa muốn Áp-ra-ham biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời Đấng toàn năng toàn quyền và không điều gì quá khó đối với Ngài. Đức Chúa Trời phán “Ta sẽ” mười hai lần trong chương này; Ngài sắp làm những việc kỳ diệu.
Sau cuộc chiến của Áp-ra-ham với bốn vua, Đức Chúa Trời đến với ông như một người đánh trận và cho ông biết Ngài là “thuẫn” của ông. Khi Áp-ra-ham băn khoăn về việc ông từ chối của cải Sô-đôm, Đức Chúa Trời cho ông biết Ngài là “phần thưởng rất lớn” của ông (Sáng Thế Ký 15:1). Giờ đây khi Áp-ra-ham và Sa-ra “tê liệt hoàn toàn” Đức Chúa Trời bảo đảm với họ rằng Ngài đủ khả năng hơn để đem đến sự sinh con kỳ diệu. Đức Chúa Trời đến với chúng ta trong những phương diện chúng ta cần Ngài nhất.
Trách nhiệm. Sự mạc khải luôn đem đến trách nhiệm. Hê-nóc và Nô-ê đã đồng đi với Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 5:22 Sáng Thế Ký 6:8-9), nhưng Áp-ra-ham phải đi trước mặt Đức Chúa Trời, đó là sống trong sự nhận biết rằng mắt Đức Chúa Trời luôn ở trên ông (Hê-bơ-rơ 4:13). Từ “trọn vẹn” không có nghĩa là “không có tội” vì đó sẽ là mục tiêu không thể đạt được cho bất cứ ai (1Các vua 8:46). Từ này nghĩa là “một lòng, không chỗ trách, thành thật, tận tụy với Chúa hoàn toàn”. Trong Xuất Ê-díp-tô 12:5 từ này chỉ về một của lễ trọn vẹn” không tì vít. Đó là một sự kêu gọi về tính chính trực.
Điều này không gợi ý rằng dân sự Đức Chúa Trời phải giải quyết bất cứ điều gì chưa đến mức phấn đấu, để phù hợp với ý muốn Đức Chúa Trời. Alexander Maclaren đã viết: “Bị thất bại bởi sự khao khát đạt những điều chưa đạt được thì có phước hơn là trì trệ trong sự hài lòng thấp hèn với kiến thức cục bộ. Thà leo lên, mặt hướng về đỉnh núi không thể đến được, hơn là nằm thoải mái trong những thung lũng màu mỡ” (Expositions of Holy Scripture Những bình luận về Kinh Thánh, cuốn 1 trang 120, Baker Book House, 1974).
Bí quyết của một sự bước đi trọn vẹn trước mặt Đức Chúa Trời là một sự thờ phượng Đức Chúa Trời cách cá nhân. Giống như Áp-ra-ham, mọi tín hữu phải phủ phục trước mặt Chúa và phó thác mọi sự cho Ngài. Nếu Ngài là “El Shaddai Đức Chúa Trời toàn năng”, vậy chúng ta là ai mà chống lại ý muốn của Ngài?
Mối liên hệ. Nhóm từ “giao ước ta” được sử dụng chín lần trong chương này và định rõ mối liên hệ của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham. Đây không phải là giao ước khác, không giống giao ước Đức Chúa Trời đã thiết lập với Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 12:1-3 Sáng Thế Ký 15:1-21). Nó là một sự tái khẳng định về giao ước đó, với sự thêm vào quan trọng về phép cắt bì, dấu hiệu và ấn chứng của giao ước.
Đức Chúa Trời một lần nữa hứa làm cho dòng dõi Áp-ra-ham thêm nhiều cho dù ông và vợ ông chưa có con. Con cháu ông sẽ “như bụi trên đất” (Sáng Thế Ký 13:16) và như sao trên trời (Sáng Thế Ký 15:5). Hai sự so sánh này đất và trời gợi ý rằng Áp-ra-ham sẽ có một dòng dõi về thuộc thể, dân Do Thái (Ma-thi-ơ 3:9) và một dòng dõi về thuộc linh bao gồm tất cả những ai tin nơi Chúa Giê-xu Christ (Ga-la-ti 3:26-29).
2. Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 17:3-14, 23-27)
Dân sự. “Áp-ra-ham”nghĩa là “cha cao quí”, “Áp-ra-ham” nghĩa là “cha của nhiều dân tộc”. Khi Áp-ra-ham cho dân sự trong trại của ông biết rằng ông đã có một tên mới, một số người chắc đã cười và nói: “Cha của nhiều dân tộc ư! Thế nào, ông ta và vợ ông ta quá già để có thể có con!”. Dù ông nhìn dưới chân hay nhìn lên trời, hoặc bất cứ khi nào có ai gọi tên ông, Áp-ra-ham được nhắc nhở về lời hứa nhân từ của Đức Chúa Trời để ban cho ông nhiều con cháu.
Hãy nhớ rằng con cháu của Áp-ra-ham không chỉ bao gồm dân Do Thái, mà cũng kể đến thế giới Ả-rập (qua Ích-ma-ên) và những dân tộc được liệt kê trong Sáng Thế Ký 25:1-4. Tất cả những ai tin Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế đều là con cháu thuộc linh của Áp-ra-ham (Ga-la-ti 3:6-9), và đó sẽ là vô số người (Khải Huyền 7:9).
Muốn kết quả cho Đức Chúa Trời, chúng ta không cần phải nhờ sức riêng của chính mình để thực hiện nhiệm vụ. Áp-ra-ham và Sa-ra đã thử kế hoạch của riêng họ, và điều đó đã thất bại thảm hại. Chúa Giê-xu đã phán: “Ngoài ta, các ngươi chẳng làm chi được” (Giăng 15:5). Vance Havner đã viết:“Chúng ta nói rằng chúng ta cậy nơi Thánh Linh, nhưng thực tế chúng tađang cố gắng với những thiết bị của mình đến nỗi nếu lửa không giáng xuống từ trời, chúng ta có thể bật công tắc và tạo ra lửa giả của mình”.
Tôi đã đọc về một mục sư người Ê-cốt đã kiêu ngạo bước lên bục giảng để giảng bài đầu tiên của mình. Anh ta có một trí tuệ xuất sắc, một học vấn tốt, và tự tin khi đối diện với hội chúng đầu tiên của mình. Nhưng anh ta càng giảng dài thì mọi người càng thấy rõ ràng “Đức Giê-hô-va không có trong cơn gió”. Anh ta chấm dứt bài giảng nhanh chóng và từ bục giảng đi xuống với đầu cúi thấp, sự kiêu ngạo của anh ta giờ đây biến mất. Sau đó, một thuộc viên đã nói với anh, “Nếu ông bước lên bục giảng giống như cách ông bước xuống thì ông đã có thể từ bục giảng bước xuống như cách ông đã bước lên”.
Đất. Giao ước đời đời của Đức Chúa Trời cũng bao gồm một tài sản đời đời: đất Ca-na-an. Đất này ngày nay là một chiến trường và sẽ luôn là vậy cho đến khi Chúa tái lâm để cai trị. Nhưng nói về giao ước của Đức Chúa Trời, đất thuộc về Y-sơ-ra-ên.
Quyền sở hữu. Đất của dân Do Thái hoàn toàn chỉ tùy thuộc vào giao ước ân điển của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham: Đức Chúa Trời đã ban đất cho họ. Nhưng sự chiếm hữu và hưởng xứ tùy thuộc vào sự trung tín vâng lời Chúa của họ. Đây là chủ đề cho những sứ điệp của Môi-se trong sách Phục truyền. Hơn 60 lần trong sách đó, Môi-se cho dân sự biết họ sẽ hưởng hoặc chiếm hữu đất, và ít nhất 25 lần, Môi-se nhắc nhở họ rằng đất là một sự ban cho từ Chúa. Danh của Đức Chúa Trời ở đó (Phục truyền 12:5, 11, 21), và Ngài sẽ gìn giữ đất để chúc phước cho đất, nếu dân sự Ngài bước đi trong những đường lối của Ngài.
Phần đất duy nhất mà tất cả các trưởng tộc đã sở hữu là hang đá Áp-ra-ham đã mua của Ép-rôn, con trai Xô-ha, để trở thành một nơi chôn cất gia đình (Sáng Thế Ký 23:1-20 Sáng Thế Ký 49:29-31). Gia-cốp cùng gia đình ông đã phải rời xứ và đi đến Ai Cập (Sáng Thế Ký 46:1-34), nhưng Đức Chúa Trời đã hứa rằng họ sẽ trở về Ca-na-an tại thời điểm được chỉ định (Sáng Thế Ký 15:13-17).
Giô-suê đã dẫn họ vào đất của họ nơi họ chiến thắng các cư dân và dành di sản của họ. Nhưng dân sự đã không ăn ở đúng với giao ước, nên Đức Chúa Trời đã phải kỷ luật họ trong xứ (Các Quan Xét 2:10-23). Ngài dấy lên các dân tộc thù địch để đánh bại Y-sơ-ra-ên và đặt họ trong vòng nô lệ. Y-sơ-ra-ên ở trong đất, nhưng họ không điều khiển đất hay vui hưởng đất (Phục truyền 28:15).
Suốt thời kỳ cai trị của Đa-vít và Sa-lô-môn, dân sự đã vui hưởng di sản của họ và hầu việc Chúa cách trung tín. Nhưng sau khi vương quốc bị chia cắt, Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đều suy đồi về thuộc linh (không kể những thời gian chuyển tiếp thỉnh thoảng của sự phục hưng) và kết thúc trong ách nô lệ, A-sy-ri đã đánh bại Y-sơ-ra-ên, và Ba-by-lôn chiến thắng Giu-đa. Đó là lúc Đức Chúa Trời sửa phạt dân sự Ngài ở ngoài đất của họ. Điều đó như thể Ngài phán: “Các ngươi đã làm ô uế đất của ta bằng những hình tượng, vì vậy ta sẽ đặt các ngươi trong một đất ham mê hình tượng. Các ngươi hãy no nê về điều đó! Sau khi các ngươi đã xa đất của mình 70 năm, có thể các ngươi sẽ biết cảm kích điều ta đã ban cho các ngươi”.
Đức Chúa Trời đã cho phép một số người sót lại trở về đất, xây dựng lại thành cùng đền thờ, và phục hồi dân tộc; nhưng nó không bao giờ trở nên một thế lực lớn nữa. Tuy nhiên, dù Y-sơ-ra-ên trung tín hay thất tín, đất vẫn thuộc về họ, và một ngày nào đó họ sẽ thừa hưởng đất và vui hưởng nó vì vinh hiển Đức Chúa Trời.Danh hiệu của Y-sơ-ra-ên đối với đất là một phần quan trọng trong giao ước đời đời của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham.
Dấu hiệu. Trong Sáng Thế Ký 17:4 Đức Chúa Trời phán “phần ta đây” nhưng trong Sáng Thế Ký 17:9 Ngài phán “phần ngươi” (NKJV, NASB, NIV). Phần của Áp-ra-ham trong giao ước là vâng lời Đức Chúa Trời và đóng dấu mỗi người nam trong nhà ông bằng dấu hiệu của giao ước. Phép cắt bì không phải là một nghi thức mới, vì các dân tộc khác đã thực hành việc ấy trong thời Áp-ra-ham, nhưng Đức Chúa Trời giờ đây ban cho việc ấy một tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt. Đối với con cháu của Áp-ra-ham, phép cắt bì không phải là một sự lựa chọn, đó là một bổn phận.
Thật quan trọng để chú ý rằng phép cắt bì không phải là một “thánh lễ”. Việc thực hiện nó không mang phước hạnh thuộc linh đối với người nhận. Bé trai 8 ngày tuổi (Lê-vi Ký 12:3) sẽ không hiểu điều gì đang xảy ra, và khi nó lớn lên, nghi thức này sẽ phải được giải thích cho nó. Chính sự vâng phục của cha mẹ là quan trọng; vì nếu họ không vâng lời Đức Chúa Trời trong việc này, con trai họ sẽ bị truất khỏi dân sự mình (Sáng Thế Ký 17:14). Dân giao ước phải mang dấu của giao ước.
Vì giao ước của Đức chúa Trời có liên quan đến “con cháu” của Áp-ra-ham, thật thích hợp rằng dấu của giao ước ở trên bộ phận sinh sản của phái nam. Vì mọi người đều hoài thai trong tội lỗi (Thi Thiên 51:5), dấu hiệu đặc biệt này sẽ nhắc nhở họ rằng họ được Đức chúa Trời chấp nhận bởi giao ước nhân từ của Ngài. Chính Đức Chúa Trời là Đấng đã chọn dân Do Thái, không phải dân Do Thái đã chọn Đức Chúa Trời (Phục truyền 7:1-11), và Ngài đã chọn họ làm một thánh dân. Sự đồi bại đã lan tràn gữa vòng các dân Ca-na-an, và thậm chí là một phần của tôn giáo họ, nhưng dân Y-sơ-ra-ên đã được “đánh dấu” để biệt riêng với kẻ ác quanh họ.
Tiếc thay, dân Do Thái đã khiến nghi thức này trở nên một phương tiện của sự cứu rỗi. Phép cắt bì là sự bảo đảm rằng bạn đã được Đức Chúa Trời chấp nhận (một số người ngày nay đặt niềm tin sai lầm nơi phép báp-tem, Tiệc Thánh và những nghi thức tôn giáo khác mà có thể rất ý nghĩa nếu được sử dụng đúng đắn). Họ không nhận ra rằng phép cắt bì tượng trưng cho điều gì đó sâu sắc hơn: mối liên hệ của con người với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời muốn chúng ta “cắt bì tấm lòng chúng ta” và hoàn toàn dâng mình cho Ngài trong sự yêu mến và vâng phục (Phục truyền 10:16 Phục truyền 30:6 Giê-rê-mi 4:4 Rô-ma 2:28-29).
Rô-ma 4:9-12 cho biết rõ rằng hoạt động thuộc thể không có liên quan gì với sự cứu rỗi của Áp-ra-ham. Áp-ra-ham đã tin Đức Chúa Trời và nhận sự công bình của Đức Chúa Trời trước khi ông chịu cắt bì (Sáng Thế Ký 15:6). Phép cắt bì không phải là phương tiện của sự cứu rỗi nhưng là dấu hiệu về sự biệt riêng của ông với tư cách một người ở trong mối liên hệ giao ước với Đức Chúa Trời. Bộ phận Luật pháp trong Hội Thánh đầu tiên đã tìm cách biến phép cắt bì và sự vâng phục Luật pháp như một đòi hỏi về sự cứu rỗi cho dân ngoại, nhưng dị giáo này đã bị bác bỏ (Công vụ 15:1-35). Trong thư tín Ga-la-ti, Phao-lô lý luận một cách thuyết phục về sự cứu rỗi chỉ bởi ân điển.
Tất cả điều này có nghĩa gì đối với tín hữu Cơ Đốc ngày nay? Ấn chứng của sự cứu rỗi chúng ta không phải là một nghi thức bên ngoài nhưng là sự hiện diện của chứng cớ bên trong, trong thân vị Thánh Linh Đức Chúa Trời (Ê-phê-sô 1:13 Ê-phê-sô 4:30 Rô-ma 8:9, 16). Chúng ta đã kinh nghiệm một “phép cắt bì thuộc linh” (Cô-lô-se 2:9-12) khiến chúng ta trở nên một phần của “phép cắt bì thật” (Phi-líp 3:1-3). Khi chúng ta tin Đấng Christ cứu chúng ta, Thánh Linh Đức Chúa Trời thực hiện “cuộc giải phẫu thuộc linh” giúp chúng ta có thể chiến thắng trên những ham muốn của bản chất cũ và đời sống cũ. Phép cắt bì chỉ bỏ đi một phần thân thể, nhưng “phép cắt bì thuộc linh” thật lột bỏ “những tội lỗi của xác thịt” (Cô-lô-se 2:11) và giải quyết triệt để bản chất tội lỗi.
“Phép cắt bì thuộc linh” này được thực hiện lúc qui đạo khi tội nhân tin nơi Đấng Christ và được Thánh Linh báp-tem vào trong thân của Đấng Christ (1Cô-rinh-tô 12:13). Phép báp-tem này đồng nhất hóa tín hữu với Đấng Christ trong sự chết, chôn, sống lại và thăng thiên của Ngài, và cũng trong phép cắt bì của Ngài (Cô-lô-se 2:11-12 Lu-ca 2:21). Không phải “phép cắt bì của Môi-se”nhưng chính “phép cắt bì của Đấng Christ” là quan trọng đối với tín hữu Cơ Đốc.
Donald Grey Barnhouse đã nói: “Chúng ta có một bản chất tội lỗi phải được giải quyết bằng dao… Điều phải được giải quyết toàn diện, chớ không phải từng phần”. Trong Đấng Christ, chúng ta có thể “bước đi trong Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt” (Ga-la-ti 5:16).
Áp-ra-ham lập tức vâng lời Đức Chúa Trời và cho mọi người nam trong gia đình ông dấu hiệu của giao ước. Chắc chắn khi ông cho họ biết tên mới của ông, ông cũng giải thích ý nghĩa nghi thức này.
3. Sa-ra (Sáng Thế Ký 17:15-17)
Tên thứ ba là “Sa-ra”, nghĩa là “công chúa” (chúng ta không biết chắc “Sa-rai” có nghĩa là gì. Một số người nói “chế nhạo” hoặc “tranh luận”. Nó cũng có thể là dạng khác của từ “công chúa”). Vì bà sẽ trở thành mẹ của các vua, điều đó chỉ đúng khi bà được gọi là một công chúa!
Chúng ta không nên đánh giá thấp vị trí của Sa-ra trong kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời. Giống như chồng bà (và tất cả chúng ta), bà có những lỗi lầm; nhưng cũng giống như chồng bà, bà tin cậy Đức Chúa Trời và thực hiện những mục đích của Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 11:11). Bà không chỉ là mẹ của dân tộc Do Thái (Ê-sai 51:2) nhưng cũng là một tấm gương tốt cho những người vợ Cơ Đốc noi theo (1Phi-e-rơ 3:1-6). Người chồng Cơ Đốc phải đối xử với vợ mình như một công chúa, vì đó là địa vị của người ấy trong Chúa.
Ba dịp cười khác nhau có liên quan đến sự ra đời của Y-sác: Áp-ra-ham đã cười vì vui mừng khi ông nghe vợ ông sẽ sinh đứa con trai được hứa ban (Sáng Thế Ký 17:17); Sa-ra đã cười trong sự vô tín khi bà nghe tin này (Sáng Thế Ký 18:9-15)và Sa-ra đã cười vì vui mừng khi đứa trẻ ra đời (Sáng Thế Ký 21:6-7). Tên Y-sác nghĩa là “nó cười”.
Thiên chức làm mẹ phải được hết sức coi trọng và sự ra đời của một đứa trẻ được chào đón bằng sự vui mừng. Mặc dù Đức Chúa Trời không kêu gọi mọi người nữ lấy chồng, hay mọi người nữ có chồng phải sinh con, nhưng Ngài có một mối quân tâm đặc biệt đối với người mẹ lẫn đứa con (Thi Thiên 113:9 Thi Thiên 127:3-5 Ma-thi-ơ 19:14). Trong một xã hội vị kỷ, có quá nhiều người xem chức làm mẹ như một rào cản và con cái như một gánh nặng. Thật ra, một số người xem con cái như một gánh nặng đến nỗi họ hủy diệt chúng trước khi chúng có một cơ hội để trở thành một phước hạnh.
Tử cung của người mẹ là một nơi chí thánh mà Đức Chúa Trời hành động (Thi Thiên 139:13-18). Bi thảm biết bao khi chúng ta biến tử cung đó thành một phần mộ, nơi chí thánh đó thành một nơi hủy diệt.
4. Y-sác (Sáng Thế Ký 17:18-22)
Đứa trẻ đầu tiên trong Kinh Thánh được đặt tên trước khi ra đời, đó là Ích-ma-ên (Sáng Thế Ký 16:11), và đứa trẻ thứ hai là Y-sác. Như chúng ta sẽ thấy khi chúng ta nghiên cứu Sáng Thế Ký 21:1-34), hai đứa trẻ này đại diện cho hai sự sinh ra khác nhau: 1. Ích-ma-ên, sự sinh ra thứ nhất của chúng ta theo xác thịt, và 2. Y-sác sự sinh ra thứ hai của chúng ta bởi Thánh Linh (Giăng 3:1-8 Ga-la-ti 4:21-31) đặc biệt là c.28-29.
Theo quan điểm loài người, chúng ta có thể hiểu vì sao Áp-ra-ham cầu thay cho Ích-ma-ên. Ích-ma-ên là con trai của ông, và cha yêu nó tha thiết. Giờ đây họ đã ở chung với nhau được 13 năm, và Ích-ma-ên đang bước vào tuổi trưởng thành. Phải chăng Đức Chúa Trời sắp lãng phí mọi điều Áp-ra-ham đã đầu tư nơi Ích-ma-ên?Không có tương lai cho cậu bé này sao? Xét cho cùng, việc Ích-ma-ên ra đời không phải là lỗi của cậu bé. Chính Áp-ra-ham và Sa-ra đã phạm tội, không phải cậu bé.
Nhưng theo quan điểm thuộc linh, Ích-ma-ên không thể thay thế Y-sác, hay ngang bằng trong kế hoạch giao ước của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã hứa chúc phước cho Ích-ma-ên (Sáng Thế Ký 16:11) và Ngài đã giữ lời hứa của Ngài (Sáng Thế Ký 25:12-16), nhưng những phước hạnh của giao ước không phải là một phần di sản của Ích-ma-ên. Chỉ một mình Y-sác là người kế nghiệp mọi sự (Sáng Thế Ký 25:5-6 Rô-ma 9:6-13).
Có một bài học thực tiễn ở đây cho tất cả những ai tìm cách sống bằng đức tin: Khi Đức Chúa Trời chuẩn bị một tương lai rực rỡ chobạn, đừng bám vào những điều của quá khứ. Ích-ma-ên đại diện cho quá khứ, Y-sác đại diện cho tương lai, . Ích-ma-ên tượng trưng cho cách xác thịt của con người để thực hiện điều gì đó cho Đức chúa Trời, nhưng Y-sác là một đứa trẻ của phép lạ, được sinh ra bởi quyền năng của Đức Chúa Trời. Ích-ma-ên đã đem sự chia rẽ vào trong gia đình, nhưng Y-sác đem đến tiếng cười. Nếu bạn có một “Ích-ma-ên”trong đời sống bạn, hãy phó thác nó cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời có một kế hoạch hoàn hảo, và điều Ngài hoạch định là điều tốt nhất. Điều đó có thể làm bạn đau đớn để từ bỏ những ước mơ ấp ủ của mình, nhưng cách của Đức Chúa Trời luôn là cách đúng đắn.
Army Carmichael, truyền giáo ở Ấn Độ, đã viết cho một người bạn bị bối rối về một từng trải đau đớn: “Tôi sẽ nói điều Cha trên trời của chúng ta đã nói với tôi từ lâu, và vẫn thường nói với tôi: Hãy nhìn trong điều đó một cơ hội để chết”.
Có lẽ chúng ta đều cần cầu nguyện: “Ôi, nguyện Ích-ma-ên đó có thể chết trong tôi!”
Ích-ma-ên không có một tên mới, vì ông đại diện cho xác thịt; và xác thịt không thể thay đổi đươc: “Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt” (Giăng 3:6) và luôn sẽ là xác thịt. “Tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu, nghĩa là trong xác thịt tôi” (Rô-ma 7:18). “Chính Thánh Linh ban sự sống, xác thịt chẳng ích chi” (Giăng 6:63 NKJV). Bản chất cũ có thể bị kỷ luật, đè nén, và thậm chí phần nào bị điều khiển, nhưng nó không thể thay đổi được. Cuộc chiến giữa xác thịt và Thánh Linh sẽ tiếp tục cho đến khi chúng ta nhận được thân thể vinh hiển trong sự hiện diện của Chúa (Ga-la-ti 5:16-26).
Đó là khởi đầu của một ngày mới đối với Áp-ra-ham và Sa-ra, vì Sa-ra sắp có một con trai!
Chúa Giê-xu đã phán: “Cha các ngươi là Áp-ra-ham đã nức lòng nhìn thấy ngày của ta, người dã thấy rồi, và mừng rỡ” (Giăng 8:56).
18. DƯỜNG NHƯ QUA LỬA (Sáng Thế Ký 18:1-19:38)
“Nhờ vào rất ít người, nhiều người chưa bao giờ ở trong lãnh vực xung đột của con người”.
Ngài Winston Churchill đã nói những lời đó với Hạ Viện Anh quốc vào ngày 20/8/1940. Ông nhìn lại năm đầu tiên của cuộc chiến và dâng quà tặng đặc biệt cho các phi công chiến đấu của lực lượng không quân Hoàng gia can đảm những người đang “thay đổi xu hướng của Thế chiến bằng sự can đảm và tận tụy của mình”.
Các công dân Anh quốc biết rằng Không Quân Hoàng gia đang làm việc vì họ, nhưng các công dân Sô-đôm và Gô-mô-rơ cùng những thành đồng bằng khác không biết rằng ba người – Áp-ra-ham, Lót, và Chúa Giê-xu đã đứng giữa họ và toàn bộ sự huỷ diệt.
1. Áp-ra-ham bạn của Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 18:1-33)
Áp-ra-ham được dành cho danh hiệu đặc biệt này trong 2Sử Ký 20:7 Ê-sai 41:8 Gia-cơ 2:23. Và ông là người duy nhất trong Kinh Thánh có danh hiệu đó. Chúa Giê-xu đã gọi La-xa-rơ là bạn Ngài (Giăng 11:11) và Ngài gọi là “bạn” đối với tất cả những ai tin nơi Ngài và vâng lời Ngài (Giăng 15:13-15). Là bạn của Ngài, chúng ta có thể dự phần tình yêu và sự thông công của Ngài, và chúng ta có thể biết ý muốn của Ngài. Vance Havner đã viết: “Nếu chúng ta bị một tai họa vô hình đeo đuổi, chúng ta cũng được che chở bởi một người Bạn Vô Hình, kẻ thù của chúng ta vĩ đại nhưng người Bạn Đồng Minh của chúng ta vĩ đại hơn”.
Tình bạn đòi hỏi sự phục vụ, và trong chương này bạn sẽ thấy Áp-ra-ham phục vụ trong ba lãnh vực khác nhau. Đối với Chúa (Sáng Thế Ký 18:1-8), đối với gia đình ông (Sáng Thế Ký 18:9-15) và đối với một thế giới hư mất (Sáng Thế Ký 18:16-33).
Ông phục vụ với Chúa (Sáng Thế Ký 18:1-8). Mọi sự phục vụ trước tiên phải là đối với Chúa, vì nếu chúng ta không là một phước hạnh đối với Chúa, chúng ta sẽ chẳng bao giờ là một phước hạnh đối với người khác. Điều này đúng đối với các thầy tế lễ Do Thái (Xuất Ê-díp-tô 28:1, 3, 4, 41 Xuất Ê-díp-tô 29:1) và đối với các tôi tớ của Đức Chúa Trời trong Hội Thánh đầu tiên (Công vụ 13:1-2). “Bất cứ việc gì anh em làm, hãy làm hết lòng, như làm cho Chúa chớ không phải cho người ta…vì anh em hầu việc Đấng Christ” (Cô-lô-se 3:23-24 NKJV).
Áp-ra-ham đang nghỉ trưa giữa cái nóng của ban ngày thì ông thấy ba vị khách lạ đi tới. Ít người từng đi lại khi mặt trời quá nóng, nên Áp-ra-ham lập tức tò mò và lịch sự. Sự tiếp đãi khách là luật đầu tiên của Đông phương và Áp-ra-ham trung tín vâng theo.
Ba vị khách là Chúa Giê-xu và hai thiên sứ của Ngài (Sáng Thế Ký 18:1, 22 Sáng Thế Ký 19:1). Chẳng có gì về sự xuất hiện của họ cho Áp-ra-ham biết họ là ai, nhưng khi ông giao tiếp với họ, ông biết rằng ông đang tiếp đãi những vị khách hoàng gia. Sự phục vụ của ông đối với Chúa đáng được chấp nhận đến nỗi chúng ta ngày nay phải noi gương của ông.
Trước hết, ông hầu việc Chúa cách cá nhân. Hãy nhớ, Áp-ra-ham đã 99 tuổi và là một trưởng tộc giàu có, và ông có thể giao nhiệm vụ này cho quản gia hay một trong số hơn 300 tôi tớ của ông (Sáng Thế Ký 14:14). Ngược lại, ông quyết định hầu việc Chúa cách cá nhân.
Ông cũng phục vụ ngay. Áp-ra-ham lẽ ra có thể phớt lờ họ bằng cách giả vờ ngủ say, hoặc ông có thể mời họ ngồi và chờ cho đến khi ông kết thúc giấc ngủ trưa của mình. Nhưng Áp-ra-ham là người có đức tin, và đức tin không trì hoãn khi nói đến sự phục vụ Chúa.
Chương này nhấn mạnh rằng Áp-ra-ham đã phục vụ Chúa cách nhanh chóng. Ông chạy ra đón các vị khách (Sáng Thế Ký 18:2) và lật đật bảo Sa-ra làm bánh (Sáng Thế Ký 18:6). Ông chạy đi bắt một con bò con và biết chắc rằng đầy tớ đã nhanh chóng làm thịt (Sáng Thế Ký 18:7). Hãy nhớ rằng đây là một ông già chạy quanh giữa cái nóng của ban ngày! Chỉ sau khi đã phục vụ các vị khách của mình thì Áp-ra-ham mới đứng yên (Sáng Thế Ký 18:8).
Áp-ra-ham đã phục vụ Chúa cách rời rộng và dâng cho Ngài điều tốt nhất ông có. Sa-ra đã làm bánh từ “bột nguyên chất” (Sáng Thế Ký 18:6) còn thịt “mềm và ngon” (Sáng Thế Ký 18:7). Không có cặn bã thừa hay thức ăn xoàng dành cho những vị khách quan trọng như thế! Thật là một tương phản với các thầy tế lễ trong thời của Ma-la-chi, đã không dâng cho Đức Chúa Trời điều tốt nhất của họ (Ma-thi-ơ 1:6-14).
Sự phục vụ của Áp-ra-ham được chú ý bởi sự khiêm nhường. Ông quì trước các vị khách của mình (Sáng Thế Ký 18:2), gọi chính mình là tôi tớ (Sáng Thế Ký 18:3, 5) và gọi bữa tiệc chỉ là “một miếng bánh”. Ông phục vụ ba vị khách và rồi đứng gần để sẵn sàng nếu được cần đến. Ông đã cắt ngang một giấc ngủ trưa dễ chịu để trở thành một tôi tớ cho ba vị khách, nhưng bởi sự phục vụ đó, ông đã nhận ra những phước hạnh kỳ diệu cho mình và vợ mình.
Cuối cùng, ông đã phục vụ Chúa với tinh thần cộng tác và cần những sự phục vụ của người khác. Sa-ra đã làm bánh, một đầy tớ đã làm thịt, và chắc chắn những tôi tớ khác đem đến cho Áp-ra-ham bơ và sữa. Nhà truyền giáo D. L. Moody đã nói: “Tôi thà để mười người làm việc hơn là làm việc của mười người” và ông đã đúng.
Qua nhiều năm, tôi đã nghiên cứu tiểu sử của các Cơ Đốc nhân cao trọng, và tôi biết rằng các tôi tớ tận tụy của Đức Chúa Trời khích lệ và truyền cảm hứng cho người khác phục vụ Chúa. D. L. Moody được Đức Chúa Trời sử dụng để tuyển và giúp đỡ nhiều người đồng công, bao gồm cả F. B. Meyer, G. Campbell Morgan, và R. A. Torrey. Paul Rader có một sự phục vụ tương tự trong thế hệ của ông, giúp sản sinh những sự phục vụ vẫn ở cùng chúng ta ngày nay. Khi chúng ta hầu việc chính mình hay chức vụ của mình, công việc của chúng ta hư mất; nhưng khi chúng ta hầu việc Chúa, Ngài ban kết quả lâu dài và dư dật (Giăng 12:20-28).
Trước khi rời phân đoạn này, tôi phải nói một lời về tầm quan trọng của sự tiếp đãi Cơ Đốc. Trong thời của những nhà trọ và khách sạn tiện nghi này, chúng ta hiếm khi nghĩ về ý nghĩa của việc tiếp đãi khách (Hê-bơ-rơ 13:1-2) nhưng sự tiếp khách là một phần quan trọng của chức vụ Cơ Đốc (Rô-ma 12:13 1Phi-e-rơ 4:9). Thật ra, “được ban cho sự tiếp khách” là một trong những đòi hỏi đối với chức lãnh đạo trong Hội Thánh địa phương (1Ti-mô-thê 3:2 Tit 1:8). Bằng cách phục vụ người khác trong tình yêu thương, chúng ta hầu việc Chúa Giê-xu là Chúa chúng ta (Ma-thi-ơ 25:34-40) và chúng ta đẩy mạnh sự rao truyền lẽ thật của Đức Chúa Trời (3Giăng 1:5-8).
Ông phục vụ vợ mình (Sáng Thế Ký 18:9-15;). Vì Áp-ra-ham trung tín với Chúa, ông trở thành một nguồn phước cho vợ ông và cuối cùng cho gia đình ông (Sáng Thế Ký 18:19).Sa-ra đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho thế giới, và bà đã thực hiện phần của mình (Hê-bơ-rơ 11:11 1Phi-e-rơ 3:1-7 Rô-ma 4:18-21). Sa-ra giờ đây đã 89 tuổi, nhưng bà vẫn là một người đàn bà gợi cảm với sự duyên dáng và vẻ đẹp (Sáng Thế Ký 20:1-18), một phần vì chồng bà yêu bà và đối xử với bà như công chúa mà bà vốn là vậy.
Chúa đã đến suốt đường từ Thiên Đàng để cho Áp-ra-ham và Sa-ra một thông cáo: vào thời gian này năm tới, Sa-ra sẽ sinh đứa con đã được hứa ban! Tin này thật khó tin đến nỗi Sa-ra cười và nghi vấn rằng một việc như thế có thể xảy ra cho hai người già chăng. Tiếng cười của Áp-ra-ham xuất phát từ đức tin vui mừng (Sáng Thế Ký 17:17), nhưng tiếng cười của Sa-ra được tạo ra bởi sự vô tín, cho dù bà tìm cách phủ nhận điều đó.
Dĩ nhiên, khi chúng ta nghi ngờ Đức Chúa Trời, chúng ta đang chất vấn sự chân thật và khả năng của Ngài, Ngài giữ những lời hứa của Ngài chưa? Ngài có quyền năng để làm điều Ngài đã phán sao? Giải đáp cho cả hai câu hỏi là vâng! (Rô-ma 4:20-21).
“Há có điều chi quá khó cho Đức Giê-hô-va chăng?” (Sáng Thế Ký 18:14). Dĩ nhiên là không! Nếu bạn cần chứng cớ, vậy hãy lắng nghe Gióp (Gióp 42:2) Giê-rê-mi, (Giê-rê-mi 32:17, 27), Thiên sứ Gáp-ri-ên (Lu-ca 1:37) và Sứ đồ Phao-lô (Ê-phê-sô 3:20-21). Nếu Đức Chúa Trời lập một lời hứa, bạn có thể biết chắc Ngài có quyền năng để thực hiện nó, và Ngài sẽ vẫn thành tín cho dù chúng ta vô tín (2Ti-mô-thê 2:13). Sa-ra cuối cùng đã ăn năn, và cùng với chồng bà, tin cậy Đức Chúa Trời, và Ngài đã ban cho họ đứa con được hứa.
Người chồng phục vụ Chúa sẽ thấy mình phục vụ những người trong gia đình mình, đặc biệt là vợ mình. Người ấy sẽ là một nguồn phước trong gia đình. Khi nghiên cứu Sáng Thế Ký 19:1-38, chúng ta sẽ thấy sự tương phản ở trong Lót, một người thế gian không có ảnh hưởng thuộc linh trong gia đình của ông.
Ông đã phục vụ một thế giới hư mất (Sáng Thế Ký 18:16-33). Áp-ra-ham thuộc về nhóm người được chọn của Đức Chúa Trời, được biết là những người cầu thay, những cá nhân như Môi-se, Sa-mu-ên, Ê-li, Giê-rê-mi, các sứ đồ và Chúa của chúng ta. Thật ra, chức vụ của Chúa chúng ta ở Thiên Đàng hôm nay là chức vụ cầu thay (Rô-ma 8:34), vì vậy chúng ta không bao giờ giống Chúa chúng ta hơn là khi chúng ta cầu thay cho người khác. Chúng ta làm một phước hạnh đối với Chúa và gia đình chúng ta thì chưa đủ; chúng ta cũng phải tìm cách chinh phục một thế giới hư mất và đem tội nhân đến với Chúa Cứu Thế.
Charles Spurgeon đã nói: “Nếu họ (tội nhân hư mất) sẽ không nghe bạn nói, họ không thể ngăn cản sự cầu nguyện của bạn. Họ giễu cợt sự khuyên lơn của bạn chăng? Họ không thể quấy rối sự cầu nguyện của bạn. Có phải họ ở quá xa đến nỗi bạn không thể đến với họ chăng? Lời cầu nguyện của bạn có thể đến với họ. Có phải họ đã tuyên bố rằng họ sẽ không bao giờ lắng nghe bạn nữa, cũng không nhìn mặt bạn chăng? Đừng lo, Đức Chúa Trời có một tiếng nói mà họ phải nghe. Hãy nói với Ngài, và Ngài sẽ khiến họ có cảm xúc. Dù bây giờ họ đối xử với bạn một cách ác cảm, lấy ác trả cho việc thiện của bạn, hãy bám theo họ bằng những lời cầu nguyện của bạn. Đừng bao giờ để họ hư mất vì thiếu sự thỉnh cầu của bạn” (Metropolitan Pulpit, cuốn 18, Truyền Đạo 263-264).
Chúa với hai thiên sứ đã rời trại của Áp-ra-ham và hướng đến Sô-đôm, nhưng Chúa ở lại trong khi các thiên sứ tiếp tục đi (Sáng Thế Ký 18:16, 22 Sáng Thế Ký 19:1). Trong nửa chương đầu, Áp-ra-ham chạy tới lui, nhưng trong nửa chương cuối ông đứng cung kính trước mặt Chúa và cầu thay cho Lót cùng những người khác ở Sô-đôm. Phước cho những người có sự quân bình!
Người cầu thay phải biết Chúa một cách cá nhân và vâng phục ý muốn Ngài. Chúng ta phải gần với Chúa đủ để học “những sự kín nhiệm” của Ngài và biết cầu nguyện về điều gì (A-mốt 3:7 Thi Thiên 25:14). Những lời của Chúa “Ta biết người” (Sáng Thế Ký 18:19) nghĩa là “Ta đã chọn người, và người là bạn thiết của ta” (Giăng 15:15). Áp-ra-ham biết về tương lai của Sô-đôm hơn chính những công dân Sô-đôm kể cả Lót. Chính tín hữu được biệt riêng là người chia sẻ những sự kín nhiệm của Đức Chúa Trời.
Sa-ra và các đầy tớ giúp Áp-ra-ham khi ông chuẩn bị một bữa ăn cho các vị khách, nhưng nói đến chức vụ cầu thay, Áp-ra-ham phải hầu việc một mình, Áp-ra-ham đã đến gần Chúa (Gia-cơ 4:8) và từ Hê-bơ-rơ nghĩa là “đến tòa án để biện hộ một vụ kiện”. Áp-ra-ham nặng lòng vì Lót và gia đình của Lót, cũng như vì những tội nhân hư mất trong ba thành đồng bằng, và ông phải chia sẻ gánh nặng đó với Chúa.
Lời cầu nguyện của Áp-ra-ham không dựa trên sự thương xót của Đức Chúa Trời nhưng dựa trên sự công bình của Đức Chúa Trời. “Đấng đoán xét toàn thế gian, há lại không làm sự công bình sao?” (Sáng Thế Ký 18:25 Phục truyền 32:4). Một Đức Chúa Trời công bằng và thánh khiết không thể hủy diệt những tín hữu công bình với kẻ vô tín gian ác, và Lót là một tín hữu (2Phi-e-rơ 2:6-9) dù những hành động và lời nói của ông dường như đi ngược với thực tế.
Thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ rất gian ác (Sáng Thế Ký 13:13), vì dân của các thành này đã bị chìm đắm trong những hành động tình dục trái với tự nhiên (Sáng Thế Ký 19:5 Giu-đe 1:7 Rô-ma 1:27). Các từ “sodomy” và sodomize” là những từ đồng nghĩa cho những hành động tình dục đồng giới. Những người này không tìm cách che giấu tội lỗi họ (Ê-sai 3:9). Họ cũng sẽ không ăn năn (Giê-rê-mi 23:14). Sự hủy diệt Sô-đôm và Gô-mô-rơ cách bất ngờ được sử dụng trong Kinh Thánh như một ví dụ về sự xét đoán công bình của Đức Chúa Trời đối với tội nhân (Ê-sai 1:9 Ê-sai 3:9 Ca Thương 4:6 Sô-phô-ni 2:9 2Phi-e-rơ 2:6) và Chúa Giê-xu đã sử dụng nó như một sự cảnh cáo cho những người trong thời kỳ cuối cùng (Lu-ca 17:28-32).
Nhưng tại sao Áp-ra-ham muốn Đức Chúa Trời tha cho những con người gian ác đó? Tốt hơn là họ phải bị diệt khỏi mặt đất! Dĩ nhiên, mối quan tâm đầu tiên của Áp-ra-ham là vì Lót và gia đình ông. Thật ra, Áp-ra-ham đã giải cứu dân Sô-đôm chỉ vì cớ Lót (Sáng Thế Ký 14:12-16), dù không ai trong những công dân này dường như cảm kích điều ông đã làm cho họ. Họ đều quay về ngay với lối sống cũ và không để ý sự cảnh cáo của Đức Chúa Trời.
Nhưng thậm chí không kể hoàn cảnh của Lót (và ông không nên sống ở Sô-đôm ngay từ đầu), Áp-ra-ham không muốn thấy tất cả những người đó chết và hư mất mãi mãi. Đức Chúa Trời “không muốn cho một người nào chết mất” (1Phi-e-rơ 3:9) và Ngài “muốn cho mọi người được cứu” (1Ti-mô-thê 2:4). “Ta chẳng vui về sự chết của kẻ ác, nhưng vui khi kẻ ác xây bỏ đường lối mình và được sống” (Ê-xê-chiên 33:11). Vấn đề không phải là con người phạm loại tội lỗi nào, dù một số tội lỗi tệ hại hơn những tội khác, vì tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô-ma 6:23) và bên kia sự chết đó là một địa ngục đời đời… Người cầu thay phải có lòng thương xót và một mối quan tâm sâu sắc về sự cứu rỗi cho người hư mất, dù tội lỗi của họ có thể ra sao (Sáng Thế Ký 9:1-3 Sáng Thế Ký 10:1).
Chúng ta không nên có ý tưởng rằng Áp-ra-ham đã lý luận với Chúa, vì ông đã không làm vậy. Ông rất khiêm nhường trước mặt Chúa khi ông trình bày duyên cớ mình (Sáng Thế Ký 18:27, 30-32). Áp-ra-ham biết chắc rằng có ít nhất mười tín hữu trong thành.
Đừng bao giờ đánh giá thấp tầm quan trọng thậm chí của một số ít tín hữu. Số ít như mười người sẽ cứu cả một thành khỏi sự hủy diệt! Nếu Lót chỉ đem gia đình của ông đến đức tin nơi Chúa, sự xét đoán sẽ được hủy bỏ, sự làm chứng cá nhân của bạn ngày nay thật quan trọng đối với Đức Chúa Trời, dù bạn có thể cảm thấy ý nghĩa ra sao.
2. Lót, bạn của thế gian (Sáng Thế Ký 19:1-28)
Chương này ghi lại những hậu quả đáng buồn về sự suy sụp thuộc linh của Gióp, sau đó Lót biến khỏi hiện trường trong khi câu chuyện của Áp-ra-ham tiếp tục (1Giăng 2:17). Áp-ra-ham là bạn của Đức Chúa Trời, nhưng Lót là bạn của thế gian (Gia-cơ 4:4) và những tương phản giữa hai người này thật dễ thấy.
Vị trí (Sáng Thế Ký 19:1). Khi những vị khách bất ngờ trên trời đến thăm Áp-ra-ham, ông ở cửa trại mình; nhưng Lót đang ngồi tại cửa thành gian ác. Áp-ra-ham là một người bộ hành và khách lạ, chỉ đi qua đời này, nhưng Lót dần dần đã từ bỏ trại mình và định cư trong Sô-đôm. Thay vì để mắt nơi thành trên trời (Sáng Thế Ký 11:10, 14-16), Lót nhìn về Sô-đôm và bắt đầu bước đi bởi ngoại cảnh (Sáng Thế Ký 13:10-11). Sau đó ông dời trại đến gần Sô-đôm (Sáng Thế Ký 13:12), và cuối cùng ông đi vào Sô-đôm (Sáng Thế Ký 14:12). Vị trí của Lót ở cửa thành cho thấy ông là một người có quyền hạn nào đó, vì đó là nơi công việc chung được giải quyết (Ru-tơ 4:1).
Nếu Lót đi đến Sô-đôm vì Đức Chúa Trời hướng dẫn ông, việc ông ở đó sẽ thực hiện những mục đích thiên thượng. Xét cho cùng, Đức Chúa Trời đã đặt Giô-sép ở Ê-díp-tô, Đa-ni-ên ở Ba-by-lôn và Ê-xơ-tê ở Ba-tư, và sự hiện diện của họ trở thành một phước hạnh. Tính trần tục không phải là một vấn đề về địa lý học nhưng là vấn đề về thái độ của tấm lòng (1Giăng 2:15-17). Lòng của Lót ở Sô-đôm trước khi thân thể ông đến đó. Chắc chắn, ông dành tình yêu đầu tiên của mình cho thế gian, khi ông đến Ai Cập với Áp-ra-ham, (Sáng Thế Ký 13:1, 10) và ông chưa bao giờ thắng hơn nó.
Thời gian (Sáng Thế Ký 19:2). Đó là buổi trưa khi Chúa và các Thiên sứ của Ngài thăm viếng Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 18:1), nhưng đó là buổi chiều khi các Thiên sứ vào Sô-đôm. Áp-ra-ham đang “bước đi trong sự sáng” trong khi Lót “bước đi trong sự tối tăm” (1Giăng 1:5-10).
Các vị khách (Sáng Thế Ký 19:1). Chỉ có hai Thiên sứ thăm viếng Lót, vì Chúa không thể giao thông với Lót và gia đình ông như Ngài đã giao thông với Áp-ra-ham và Sa-ra. Dù Lót là một tín hữu, đời sống của ông là thế đến nỗi Chúa không cảm thấy “thoải mái” khi đến với ông. Chính tín hữu được biệt riêng là người vui hưởng sự bước đi và mối liên hệ mật thiết với Chúa (2Cô-rinh-tô 6:14-18 Giăng 14:21-24). Học giả Hy Lạp Kenneth Wuest đã dịch lời cầu nguyện của Phao-lô trong Ê-phê-sô 3:17 “đến nỗi Đấng Christ cuối cùng có thể ngự vào và cảm thấy tự nhiên hoàn toàn trong lòng anh em bởi đức tin anh em” (WUEST). Không giống Áp-ra-ham, Lót không có trại hay bàn thờ, và Chúa không thể giao thông với ông.
Sự tiếp khách (Sáng Thế Ký 19:2-11). Lót gọi mình là “tôi tớ”nhưng bạn không thấy ông lật đật chuẩn bị một bữa ăn như Áp-ra-ham đã làm; ông cũng không đứng để xem mình có thể thực hiện sự phuc vụ nào khác. Nhưng việc những người nam trong thành đến trước cửa vì những mục đích đồi bại là đỉnh điểm của buổi chiều này (“Hãy đem họ ra cho chúng ta hầu cho chúng ta có thể giao hợp với họ” là bản dịch NIV của Sáng Thế Ký 19:5). Lót sẵn sàng hy sinh hai con gái chưa chồng của ông cho sự thèm khát của đám người này (Ca Thương 19:1-30), nhưng các Thiên sứ đã can thiệp. Điều gì xảy ra cho những giá trị cá nhân của Lót khi hiến những con gái của mình để làm thỏa mãn thèm khát nhục dục của một đám đông? (Trái lại, Áp-ra-ham sẽ dâng con trai ông cho Chúa).
Những sứ điệp (Sáng Thế Ký 19:12-13). Sứ điệp của Đức Chúa Trời cho Áp-ra-ham là một sứ điệp vui mừng, ông và Sa-ra sẽ có đứa con trai đươc hứa ban trong vòng một năm. Nhưng sứ điệp dành cho Lót đáng kinh sợ: Đức Chúa Trời sẽ hủy diệt Sô-đôm và mọi thứ trong đó! Đức Chúa Trời sẽ tha cho thành nếu các Thiên sứ tìm thấy mười người tin, nhưng vì điều đó không thể xảy ra, Đức Chúa Trời đã đầy lòng thương xót giải cứu những tín hữu mà các Thiên sứ tìm thấy (Sáng Thế Ký 19:16). Sứ điệp của Đức Chúa Trời cho thế gian hư mất là sự xét đoán sẽ đến, nhưng lời hứa của Ngài cho những người thuộc về Ngài là Ngài sẽ giải cứu họ (1Tê-sa-lô-ni-ca 5:1-11 2Phi-e-rơ 2:4-10).
Ảnh hưởng (Sáng Thế Ký 19:14). Vì cớ đức tin và sự vâng lời của mình, Áp-ra-ham là một phước hạnh cho gia đình ông và cho cả thế giới. Vì sự trần tục của mình, Lót không có ảnh hưởng thuộc linh trong thành hay trong gia đình ông. Các con gái của ông đã lập gia đình cùng với chồng của họ đã cười ông và từ chối rời thành. Thậm chí vợ ông quá yêu mến Sô-đôm đến nỗi bà phải nhìn lần cuối, và cái nhìn đó đã giết chết bà (Sáng Thế Ký 19:26 Lu-ca 17:32). Hai con gái chưa chồng của Lót đi với ông ra khỏi thành, nhưng họ dừng lại trong một cái hang, làm cho cha họ say rượu và phạm tội loạn luân với ông. Sau khi lìa khỏi Áp-ra-ham, Lót đã để cho tính cách của mình sa đọa, và ảnh hưởng của ông suy sụp theo.
Những thái độ (Sáng Thế Ký 17:15-26). Lần đầu tiên Đức Chúa Trời giải cứu lót, ông là một tù binh chiến tranh